Chào Khách quý
|
Văn xuôi, chuyển kể, hồi ký...
NỘI DUNG CỦA CHỦ ĐỀ:
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12493
|
Dung...con ! ừh Dung...con !
Mau theo Cha dzìa đảo đào hoa Sống yên vui phong cảnh hữu tình Mần cái chi con theo thằng ngốc Nhìn mặt hắn ta hổng ưa rùi Còn cái giọng cà lâm thấy chán Thua thằng cháu của ông Tây Độc Âu Dương khắc bảnh bao giỏi võ Ta Đông Tà làm sui Tây Độc Môn đăng hộ đối chốn giang hồ Con coi hắn cà lâm mắt chớp Một câu đảo chủ thưa Đảo chủ Thôi dẹp đi phép tắc người đời Nó hổng có cái gì ta thích Mau theo Ta dzìa đảo cho rùi Làm ăn mày hổng tốt đâu con Ta lên tàu rời bến cho mau Nhổ neo.... Đảo chủ đảo Đào Hoa Hoàng Dược Sư HOÀNG LÃO TÀ ( Tre Xanh ) 09-04-13 |
|
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12494
|
ĐẠI DŨNG
Sách Luận ngữ có câu: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả”, có nghĩa là thấy việc nghĩa không làm không phải là người có dũng, thấy việc đúng mà không làm thì không phải là người quân tử, vì vậy tiêu chí của người học võ là trọng nghĩa. Dũng không phải là thấy việc bất bình thì “động thủ”, liều chết xông lên. Khi bị binh lính hành hình trên thập tự giá, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, Đức Chúa Giê Su nói: “Xin Cha hãy tha thứ cho chúng, vì chúng không hiểu việc chúng làm”. Tinh thần điềm đạm và nhân ái ấy chính là đại dũng. Người dụng võ đại dũng chân chính, chiếu không thẳng không ngồi (tịch bất chính bất tọa), việc phi nghĩa không nhúng tay. Nhưng, được mấy người như vậy? Thế sự phù trầm trên con đường tu học, người giác ngộ thì ít, kẻ giả vờ giác ngộ thì nhiều. Vì vậy, lời hát hay không lọt được vào tai chúng nhân, hát líu lo bậy bạ thì chúng lại cùng nhau vỗ tay khen hay. Trong Lục tài tử thư (1), Nam Hoa Kinh của Trang tử là bộ sách xếp hàng thứ nhất. Để miêu tả tinh thần đại dũng của một hiền sĩ qua hình ảnh loài chim Uyên Sồ; Thiên Thu Thủy trong Nam Hoa Kinh có đoạn chép: Huệ tử làm quan nước Lương, Trang tử tính qua nước Lương thăm. Nhưng, có kẻ nói với Huệ tử: “Trang tử mà qua đây là để cùng ông tranh ngôi tướng quốc”. Huệ tử sợ, cho kẻ canh chừng suốt ba ngày ba đêm, đợi Trang tử đến thì bắt.” Trang tử hay chuyện, không đi. Sau rồi lại đến. Gặp Huệ tử ,Trang tử bảo: “Phương Nam có con chim tên là Uyên Sồ, ông có biết không? Uyên Sồ bay từ biển Nam qua biển Bắc, nếu không gặp cây ngô đồng thì không chịu đậu; nếu không gặp hột luyện thì không ăn; nếu không gặp giếng nước ngọt thì không uống”. Có con chim ụt đang rỉa xác chuột chết giữa cánh đồng, thấy Uyên Sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn nên kêu to lên để dọa Uyên Sồ đừng đáp xuống. Nay vì sợ cái ngôi tướng quốc của ông ở nước Lương nên ông kêu to lên để dọa tôi sao?” Chiến Quốc Sách viết chuyện Yêu Ly và Khánh Kỵ: Yêu Ly vì cảm cái nghĩa của Hạp Lư mà hứa giúp cho để lừa giết Khánh Kỵ. Một hôm Khánh Kỵ ngồi ở mũi thuyền chỉ huy binh sĩ, thì Yêu Ly cầm kích đứng sau lưng mà hầu, thừa lúc thuận chiều, đâm kích suốt qua bụng Khánh Kỵ. Khánh Kỵ sức khỏe phi thường, liền trở tay với bắt Yêu Ly, xách ngược lên, dìm đầu xuống nước ba lần, nhưng rồi lại ẵm lên để trong lòng, cúi nhìn cười và bảo: “Thiên hạ lại còn có kẻ dũng sĩ này có gan đâm ta chớ!” Các tướng sĩ toan đâm chết Yêu Ly, nhưng Khánh Kỵ gạt đi, bảo: “Người này là một bậc đại dũng. Trong một ngày chớ nên để chết hai người dũng sĩ của thiên hạ. Các ngươi nên tha hắn, để hắn về Ngô tỏ lòng trung”. Khánh Kỵ tha Yêu Ly rồi rút ngọn kích trong bụng ra mà chết. Sau đó, Yêu Ly cảm tinh thần đại dũng của Khánh Kỵ liền rút gươm tự sát. Yêu Ly là người đại dũng. Khánh Kỵ lại còn là người trên người đại dũng. Lạn Tương Như, một bậc đại dũng, người đời Chiến Quốc, môn hạ của vua Triệu. Qua việc dâng ngọc cho vua Tần mà tỏ dũng khí buộc vua Tần phải giữ lời hứa giao thành đổi ngọc cho Triệu. Cảm nghĩa khí ấy, vua Triệu ban tặng lời khen ngợi và phong chức Thượng tướng trước quần thần cho Lạn Tương Như. Cũng vì lời khen và phong chức cho Lạn Tương Như của vua Triệu mà tướng quốc Liêm Pha của Triệu đem lòng ganh tị, bất mãn. Lạn Tương Như biết được nên tìm đường lánh Liêm Pha không cho gặp mặt. Có lần Lạn Tương Như ra đường gặp Liêm Pha trước sau tả hữu quân lính ồ ạt theo hầu. Tương Như thấy vậy bảo người đánh xe tránh vào ngõ hẻm, chờ Liêm Pha qua khỏi mới đi. Kẻ thủ hạ thấy vậy muốn biết nguyên nhân. Lạn Tương Như hỏi: “Các ngươi xem Liêm tướng quân uy lực có bằng vua Tần không?”. Bọn xá nhân đáp: “Không bằng”. Lạn Tương Như nói: “Lấy cái uy lực của vua Tần trong thiên hạ không ai dám chống, thế mà ta dám đương nhiên mắng vào mặt vua Tần và làm nhục cả quần thần. Ta dẫu hèn, há sợ Liêm Pha sao? Tuy nhiên ta nghĩ sở dĩ nước Tần không dám đánh Triệu là vì có ta và Liêm Pha. Nay nếu ta và Liêm Pha vì hiềm khích hại nhau, Tần sẽ thừa cơ đem quân đánh Triệu. Ta nghĩ đến sự tồn vong của đất nước mà bỏ chuyện hiềm khích vì ganh tị cá nhân của Liêm Pha đó thôi.” “Nhân tất hữu dũng”, nghĩa là người có lòng nhân ái là người có dũng. Người đời ngưỡng mộ võ, vì thấy những tấm gương đại dũng của người dụng võ. Người đời khinh rẻ võ, bởi thấy nhiều ngừời dụng võ tham tài (tiền) bỏ ngãi (nghĩa). Đại dũng là đức tính cao quý của người dụng võ. Người đại dũng khiêm cung, hòa ái, can đảm, bất khuất, kiên cường…lấy nhân, nghĩa làm đường tiến thủ. Võ sư Trương Văn Bảo Tre Xanh Ca 10-04-13 |
|
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12495
|
HOÀNG DUNG MUỘI MUỘI!
Dung muội ui... Tĩnh ca nơi đại mạc Suốt cả ngày làm bạn với trừu, dê Vừa gặp muội nhìn hàm răng trắng bốc... Cười bebe... là huynh mết muội liền Muội biết hông Má huynh cho ít bạc Đặng đi đường đớp hủ tiếu lai rai Nhưng gặp muội giả ăn mày ốm nhách Thấy mà thương nên kết bạn tâm tình Hổng ngờ đâu muội phá làng phá xóm Thiệt đúng là con gái lão Đông Tà Làm huynh đây bị nhiều phen mắng dzốn Sạch túi tiền con ngựa cũng mất tiêu Bởi "dại gái" nên thui đành chịu trận... Suốt cả ngày bị thọt lét lia chia Nhưng hổng sao... do Tĩnh ca tự nguyện "Thú thương đau" huynh đã lỡ ghiền rùi...hihi... TB: Dung muội à... mấy bữa rầy Tĩnh ca phải vừa cày, vừa phải chép lại mấy pho bí kiếp... thấy woải wá... muội nhớ bỏ chút "an thân thần đơn" dzô nồi cháo cá lóc nghen... đặng mà huynh có sức để... khò... hihi... mà muội nhớ cẩn thận nghen.. tránh cái lọ thuốc xanh xanh của Tía muội là lão Đào hoa đảo chủ... Đông Tà Hoàng Dược Sư... mấy viên xanh xanh đó mà muội bỏ lộn dzô nồi cháo cá lóc là có môn huynh đành xách chiếu.... à quên... xách gói theo muội ra chòi.... chăn dzịt...hehehe... Pb474 CA 04/11/2013 |
|
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12496
|
QUÁCH CA CA!
Quách ca ca! ta ghét ngươi lắm. Làm gì mà nhìn ta trân trân Từ đầu đến chân không chớp mắt Thằng bé ăn mày, lạ lắm sao?! Hồn vía ngươi đang ở trên cao Hay đi chơi mãi tận xứ nào Ta no rồi...mau trả tiền hủ tiếu Tại sao cứ líu ríu theo ta? Mẹ ta mất sớm khi ta còn nhỏ Ở với cha tập luyện võ công Nên tính tình có phần giống ổng Điều tất nhiên ngươi biết ổng rồi! Ta thông minh tài trí hơn người Thêm dung mạo làm ngươi phải" mết" Thật ra ta đây cũng chết mệt! Tính khù khờ, ngốc nghếch của ngươi. Lại tốt bụng, thật thà, chất phát Làm tim ta loạn nhảy Rumba Để trừ tiền ngươi trả cho ta Vậy thì ta cùng ngươi kết bạn. TS 13.04.13 |
|
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12497
|
HOÀNG DUNG ĐỆ ĐỆ!
Nhớ lần đầu gặp nhau nơi tửu quán Đệ tong teo rách rưới thiệt thảm thương Ngoài cửa quán Đệ cãi nhau ủm tỏi Chôm bánh bao làm lắm kẻ điên đầu Nhưng thiệt loạ mặt mày thì lem luốc Mắt đen tuyền hàm răng trắng dễ thương Huynh thấy tội kêu Đệ vô trong quán Đãi một chầu cơm rượu thiệt no say Còn nhớ hông Đệ kêu mười hai món Toàn cao lương mỹ vị loại khẳm tiền Đồ ăn chơi Đệ kêu thêm tám món Thấy mà kinh đám tiểu nhị lắc đầu Nghe giọng Đệ làm Huynh thiệt nhớ Má Giọng ngọt ngào ui lắm chuyện huyên thuyên Nghe càng thích càng thấy thương chi lạ Nhìn càng hay càng thấy mến dzô cùng Nhớ những năm Huynh sống nơi Đại mạc Kết bạn bè với hoàng tử Đà Lôi Có Hoa Tranh công chúa con Đại Hãn Nàng cũng xinh... nhưng hơi có mùi dê Còn phần Đệ thì ui thui khỏi nói Tướng ăn mày nhưng thơm quá chừng luôn Chẳng những dzậy mà khi Huynh dzui quá Lỡ cầm tay... sao mềm mại dzậy cà Lúc chia tay thiệt là Huynh hổng nở Áo lông Điêu, ngựa quí cũng tặng luôn Mong là Đệ được sớm hôm dzui dẻ Quay dzià nhà được ấm áp bên cha... Pb474 CA 04/14/2013 |
|
└(≣) KIẾN THỨC TRONG VÕ THUẬT KIẾM HIỆP cách đây 10 năm, 2 tháng #12498
|
HỌC VÕ - DẠY VÕ
Học võ. Người xưa dạy rằng: “Tập võ chi đạo có thể được cường thân, mẫn trí. Một người tập võ thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối của võ thuật trước tiên là phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học vấn.” Võ thuật là môn học rộng lớn, thâm sâu, có tính khoa học, nghệ thuật, giáo dục văn hoá truyền thống… Võ là khoa học, nghệ thuật vì võ dạy cho con người phương pháp rèn luyện sức khoẻ, phát triển sức mạnh, ngăn ngừa bệnh tật theo khoa học giáo dục thể chất trong một nghệ thuật thần kỳ nuôi dưỡng tinh - khí - thần và nghệ thuật tự vệ, chiến đấu. Khoa học võ thuật đích thực có các nguyên lý cấu thành và liên hệ mật thiết với những khoa học tương cận như vật lý học, sinh học, y học, quân sự…Đặc biệt là triết học Đông phương. Võ là giáo dục văn hóa truyền thống vì võ dạy cho người học biết nuôi dưỡng nhân tính và sống theo đạo lý trong một tôn chỉ rèn luyện nhân cách làm người. Việc luyện tập võ thuật là một cuộc trường chinh để tự thắng chính mình, đưa con người đến sự giản dị, điềm đạm, khiêm tốn, đạt đến chân - thiện - mỹ trong cuộc sống. Chỉ có những ai không đi hết trọn con đường mới phải tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch. Trong tập sách Từ sinh lý đến dưỡng sinh, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết: “Tập vận động cho thân thể có nhiều cách, có những vận động tự nhiên như chạy, nhảy, bơi lội…thì ai cũng nên tập. Ngoài ra còn có các môn thể dục, thể thao tay không hay dụng cụ nhưng muốn rèn luyện để có các vận động điêu luyện thì tập võ là phương pháp hay nhất.” Thật vậy, tuy võ thuật có đặc thù là chiến đấu nhưng tập võ còn là phương pháp tốt để nâng cao sức khỏe, qua đó con người có thể rèn luyện được nhiều đức tính quý báu như bền bỉ, chịu đựng, nhanh nhẹn, mưu trí, gan dạ và nhất là ở đỉnh cao người học võ thì khiêm tốn, điềm đạm, giản dị, giàu lòng vị tha và nhân ái. Thuật làm cho thân thể được khoẻ mạnh có rất nhiều. Biết được một thuật đủ để cho thân thể khoẻ mạnh và sống lâu. Võ thuật là một trong các nghệ thuật đó. Võ thuật không chỉ là loại hình vận động thể dục thể thao giản đơn mà còn là một hiện tượng văn hoá thần kỳ với những thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái… những công phu đặc dị, khí công, âm dương, ngũ hành, điểm huyệt, giải huyệt… Do vậy cổ nhân thường ví võ học sâu như Đông hải, rậm rạp như rừng, mênh mông như biển cả. Võ thuật là giáo dục, văn hoá truyền thống, khoa học, quân sự, là phương pháp rèn luyện tu tập thể chất lẫn tinh thần và là môn học mang lại nhiều bổ ích. Đức Phật Thích Ca dạy các đệ tử rằng: “Đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng chính mình, tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”. Tứ thư, Ngũ kinh là những bộ sách lớn, có giá trị trên nhiều phương diện, nhất là giáo dục. Chương thứ I, sách Đại học, bộ Tứ thư, luận về sự học viết: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện. Tri chỉ, nhi hậu hữu định. Định, nhi hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhi hậu năng an. An, nhi hậu năng lự. Lự, nhi hậu năng đắc. Vật hữu bổn mạt; sự hữu chung, thuỷ. Tri sở tiên, hậu, tắc cận đạo hỹ. Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên tri kỳ tri. Trí tri tại cách vật. Vật cách, nhi hậu tri chí. Tri chí, nhi hậu ý thành. Ý thành, nhi hậu tâm chính. Tâm chính, nhi hậu thân tu. Thân tu, nhi hậu gia tề. Gia tề, nhi hậu quốc trị. Quốc trị, nhi hậu thiên hạ bình. Tự Thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. Kỳ bản loạn, nhi mạt trị giả, phủ hỹ. Kỳ sở hậu giả bạc, nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu giã. Khang Cáo viết: “ Khắc minh đức”. Thái Giáp viết: “Cố thị Thiên chi minh mệnh”. Đế Diễn viết: “Khắc minh tuấn đức”. Giai tự minh giã. Dịch nghĩa Cái đạo của đại học là ở tỏ đức sáng, ở mới dân và ở chỗ chỉ ư chí thiện. Trước hết phải biết mục đích, rồi sau mới quyết định, quyết định rồi bình tĩnh, bình tĩnh rồi sau mới vững được tinh thần. Tinh thần có vững mới nghĩ được những công việc cho đi đến kết quả. Vật có gốc ngọn, việc có trước sau. Biết phân biệt thứ tự là gần với đạo vậy. Người đời xưa muốn tỏ đức sáng cho thiên hạ biết thì trước khi trị nước phải lo cho yên nhà. Muốn lo cho yên nhà, trước hết phải sửa mình. Muốn sửa mình thì tâm phải ngay thẳng, ý chí phải thành thật. Muốn cho tâm được ngay thẳng, ý chí đươc thành thật, thì trước hết phải thông suốt vấn đề, phải hiểu lẽ sự vật. Hiểu lẽ sự vật rồi sau mới thông suốt vấn đề, rồi ý chí mới thành thật. Ý chí thành thật rồi tâm mới ngay thẳng. Tâm ngay thẳng rồi thân mới sửa. Thân sửa rồi nhà mới yên. Nhà yên rồi sau nước mới trị. Nước có trị rồi thiên hạ mới bình được. Từ Thiên tử cho đến người thường dân, ai ai cũng lấy sửa mình làm gốc cả. Gốc loạn mà ngọn yên không bao giờ có vậy. Cũng như chưa có ai đối với người hậu với mình mà xử bạc, đối với người bạc mà xử hậu. Thiên Khang Cáo nói: Phải làm cho sáng đức. Thiên Thái Giáp nói: Bao giờ cũng phải xét kỹ cái mệnh sáng của trời. Thiên Đế Diễn nói: Phải sáng đức lớn. Tất cả đều nói phải tự làm sáng đức mình vậy. (Tạ Thanh Bạch dịch chú) "Học võ là học đạo, trước tiên là đạo làm người, học võ còn để rèn luyện thân thể, lấy "dục thể, dục trí, dục đức" làm mục đích phấn đấu, bất luận trong hoàn cảnh nào, tinh thần thượng võ phải được tôn trọng. Người biết võ nên đóng góp công sức vào những việc ích nước lợi dân. Người giỏi võ mà kém trí đức chỉ là hạng võ biền hại người hại mình." (Võ sư Hoắc Nguyên Giáp - Tinh võ môn) Dạy võ Thầy: tiếng gọi thiêng liêng, như tiếng gọi cha, gọi mẹ. Thầy là “sư phụ”, xưa quan niệm thầy là thiên chức không phải là nghề, thầy dạy chữ là giáo sư, thầy dạy võ là võ sư. Thầy là người có công ơn dạy dỗ, trau giồi, truyền đạt kiến thức, hun đúc ý chí, làm tấm gương soi rọi về nhân phẩm, đạo đức cho học trò noi theo mà nên người. Thành nhân là tôn chỉ của giáo dục. Dân gian có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Người xưa quan niệm truyền thụ võ công là việc trang nghiêm, người học đến võ đường phải làm lễ nhập môn, bái tổ, bái sư. Nghi thức ấy xem ra cổ mà kính, đó là khởi nguồn của lễ. Võ thuật bắt đầu bằng lễ và kết thúc cũng bằng lễ. Chính từ những quan niệm xưa ấy mà thầy trò giữ lễ với nhau, lấy nhân nghĩa làm tiêu chí hành xử. Thầy sẽ là tấm gương soi trong sáng cho hậu thế, lời nói đi đôi với việc làm, tri hành hợp nhất. Ngoài khả năng chuyên môn, tư cách đạo đức, người thầy còn làm sáng lên nhân cách xử thế, người học nhìn vào mà noi theo. Người xưa trọng tinh thần hơn vật chất, do vậy ít nghe chuyện khoe khoang, quảng cáo, công nghệ đánh phấn tô hồng chữ tôi, mà tâm niệm học võ là để phát huy chữ đức. Thầy quang minh lỗi lạc, chính trực công minh như tướng lĩnh can trường ngoài mặt trận. Chuyện dùng những thủ đoạn thấp hèn, độc quyền xưng bá đồ vương võ lâm là điều không có với những người thầy liêm sỉ. Thầy trượng phu, quân tử coi cuộc đời như thủy bạc, tình nghĩa đón đưa đôi bờ, bốn bể là nhà, đất trời là giang sơn. Văn hóa võ thuật như rừng cây có nhiều gỗ quý. Thầy là sự mẫu mực, từ tri thức đến đạo hạnh. Dạy môn sinh bằng tâm đức, lấy lòng yêu thương, tâm huyết truyền thụ võ công, nên có câu: “danh sư xuất cao đồ”. Làm người thật khó, làm thầy thật khó hơn. Quan niệm xưa và nay bây giờ đã khác. Ngày xưa quan niệm: “Hữu xạ tự nhiên hương”, thầy giỏi và đức độ học trò tự “tầm sư học đạo”. Ngày nay kinh tế thị trường, quảng cáo tiếp thị là phương tiện giúp con người tìm đến nhau, nên có thầy đã tìm trò. Chính vì vậy mà nảy sinh chênh lệch đạo lý thầy trò, xã hội nhìn hình ảnh người thầy bằng một góc khác. Võ thuật là môn học đặc thù, trọng võ đức, nêu cao tinh thần thượng võ, thuyền trưởng chết theo tàu, tướng lãnh chết theo thành. Dạy võ là dạy nhân cách sống, nhân cách hành xử: - Điều thứ nhất là trong võ có đạo, đạo ở đây là đạo đức thuợng võ, đạo làm người, vì vậy người dụng võ trước tiên phải trọng võ đức, khi hành xử phải tự chủ, tự thắng chính mình để tránh được tối đa các kết quả xấu, ngoài ý muốn. - Điều thứ hai là võ không chỉ đơn thuần là quyền cước, binh khí chiến đấu mà đỉnh cao của võ là trí tuệ, mưu lược, khôn ngoan, uyển chuyển, khi cần thì lên cao, lúc không cần thì xuống thấp, linh hoạt ẩn hiện như con rồng. Người đánh trăm trận trăm thắng chưa phải là người giỏi nhất, không đánh mà buộc đối phương phải hàng, tâm phục khẩu phục mới thật là người giỏi nhất. - Điều thứ ba khi cần thiết phải dụng võ để chiến đấu tự tồn, mưu sinh thoát hiểm thì như mãnh hổ chốn rừng sâu, uy nghi, dũng cảm, cương quyết, tỉnh táo làm chủ trong mọi tình huống. - Điều thứ tư là văn ôn võ luyện, võ là hơi thở hằng ngày, là hành trang vạn dặm, có như vậy thì sự học võ mới không hoài công vô ích. - Điều thứ năm, là Thiên Mưu Công trong Tôn Tử Binh Pháp viết: Biết người biết ta trăm trận không nguy; Không biết người chỉ biết ta một được một thua; Không biết người không biết ta hễ đánh là nguy. Nhưng dù sao đi nữa thì: “Trong thế gian không có hương thơm nào bay ngược được chiều gió, chỉ có hương thơm đức hạnh mới có khả năng bay ngược chiều gió và tỏa ngát muôn phương”. (Kinh Pháp cú). Thầy dạy võ là: “Sổ hàng di biểu lưu thiên địa. Nhất phiến đan tâm phó sử thi”. Có nghĩa là: Đôi hàng soi dấu lưu muôn thuở. Một tấm lòng son tạc sử xanh. (Cổ thi) Võ sư Trương Văn Bảo Tre Xanh CA 17-04-13 |
|
Copyright© 2012
Thời gian tải trang: 0.14 giây