Chào Khách quý
|
Văn xuôi, chuyển kể, hồi ký...
NỘI DUNG CỦA CHỦ ĐỀ:
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 8 tháng #15440
|
Soạn Giả Viễn Châu Viễn Châu tên thật là Huỳnh Trí Bá (hay còn gọi là Bảy Bá), sinh năm 1924 tại xã Đôn Châu, tỉnh Trà Vinh. Thuở nhỏ, ông học quốc văn ở trường làng và học Hán văn với những bậc túc nho ở tại nhà. Ngoài ra, ông còn học thêm âm nhạc. Ông khá sành Hán văn và sử dụng khá thành thạo các nhạc cụ dân tộc, đặc biệt là đàn tranh. Sinh trưởng trong một gia đình Nho giáo, theo đuổi Nho văn và sớm có thiên tư về âm nhạc nhưng khi lớn lên, ông lại không có thiên hướng về khoa cử hay sân khấu. Ông đam mê viết văn và làm thơ hơn. Truyện ngắn “Chàng trẻ tuổi”, truyện ngắn đầu tay của ông đã được đăng trên báo Dân Mới vào năm 1942. Cùng năm này, bài thơ “Thoi mộng” của ông cũng đã được đăng trên báo “Tổng xã mới”. Ông viết văn, làm thơ nhưng không có duyên nợ với văn chương. Năm 1945, ông chuyển sang soạn tuồng cải lương. Vở tuồng “ Hồn chiến sĩ”, vở tuồng đầu tay của ông, có nội dung chống thực dân Pháp, đã được Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Trà Cú (lúc bấy giờ là quận Trần Chí Nam) tổ chức hát bán vé để góp quỹ kháng chiến. Ông chuẩn bị tham gia kháng chiến thì gia đình gặp biến cố. Năm 1946, người anh thứ sáu của ông là Huỳnh Thanh Tòng bị Pháp bắt và bị bức tử ở đồn Long Toàn. Để tránh khủng bố, ông bỏ xứ Đôn Châu lên Vĩnh Long tá túc trong nhà một người bạn rồi sau đó phiêu bạt lên Sài Gòn. Bút danh “Viễn Châu” của ông có nghĩa là xa Đôn Châu được hình thành từ thời gian này. Năm 1947, Viễn Châu tham gia công tác thành ở Sài Gòn và bị Pháp bắt cùng với 4 đồng chí khác. Ông bị đày đi an trí ở Cẩm Giang (Tây Ninh). Sau khi đi an trí về, ông viết vở cải lương “Nát cánh hoa rừng” nhằm tố cáo chế độ thực dân Pháp, tố cáo sự bóc lột của bọn chủ đồn điền Pháp. Vở cải lương “Nát cánh hoa rừng” được đoàn Việt kịch Năn Châu trình diễn vào năm 1950. Đây là vở cải lương đầu tiên của ông được trình diễn trên sân khấu đại ban. Kể từ năm 1950, qua vở cải lương “Nát cánh hoa rừng” tên tuổi Viễn Châu bắt đầu được giới mộ điệu chú ý. Và trong thời gian này, tiếng đờn trang của ông, tiếng đờn trang của Bảy Bá cũng được các hãng đĩa thu thanh và phát hành liên tục. Cùng với ngón đờn sến Năm Cơ, ngón đờn tranh Bảy Bá là hai ngón đờn cổ nhạc đã được giới mộ điệu đánh giá cao và coi như bậc thầy. Viễn Châu vừa là danh cầm vừa là soạn giả. Trong thời gian ở Sài Gòn, ngoài đoàn Việt kịch Năm Châu, ông còn cộng tác với các đoàn hát: Kim Thanh Út Trà Ôn (1955), Thanh Tao (1958), Thanh Nga (1962), Dạ Lý Hương (1969), Tân Hoa Lan (1969). Đồng thời ông còn cộng tác với các hãng dĩa: Việt Nam (1950), Kim Long (1951), Việt Hải (1953), Thăng Long (1954), Sống Mới (1968), Nhạc ngày xanh (1969), Hồn nước (1973),… Sau năm 1975, ông cộng tác với Đoàn Văn công Thành phố (1975), hãng băng Sài Gòn Audio (1978) và nhiều đoàn hát ở các tỉnh. Năm 1984, ông cùng đoàn nghệ thuật 284 lưu diễn ở các nước Tây âu như: Đức, Bỉ, Pháp, Ý. Một sáng tạo của Viễn Châu có ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật là việc ghép tân nhạc vào bản vọng cổ mà ông gọi là “Tân cổ giao duyên”. Bản “Tân cổ giao duyên” đầu tiên của ông có tựa “Chàng là ai” (nhạc Nguyễn Hữu Thiết) do Lệ Thủy ca vào năm 1964. Ngoài ra, về âm nhạc, ông cũng có sáng tác một bản nhạc tài tử ngắn tên là “Dạ khúc” đã được thu thanh trong băng cổ nhạc “Hòa tấu I” do Sài Gòn Audio thực hiện vào năm 1978. Do có thành tích biểu diễn đờn tranh và nhiều đóng góp khác trong lĩnh vực cổ nhạc, ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vào năm 1988. Ngoài danh hiệu này, ông còn được giứoi mộ điệu suy tôn là “ Vua viết lời ca vọng cổ”. Sự suy tôn này kể cũng không quá đáng. Hơn 50 năm sáng tác, ông đã để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trên 50 vở cải lương đã được trình diễn trên các sân khấu đại ban và trên 2000 bản vọng cổ đã được các hãng dĩa, băng thu thanh và phát hành. Những vở cải lương của ông được khán thính giả biết đến nhiều nhất là: Nát cánh hoa rừng, Tình mẫu tử, Đời cô Nga, Sau bức màn nhung, Bông ô môi, Chuyện tình Hàn Mặc Tử, Quân vương và thiếp, Qua cơn ác mộng, Nợ tình, Hoa Mộc Lan, Con gái Hoa Mộc Lan, Hai nụ cười xuân, Ai điên ai tỉnh,… Vở cải lương “ Ai điên ai tỉnh” vào tháng 02/1975, dưới thời chế độ cũ, đã được báo giới Sài Gòn bình chọn là vở cải lương hay nhất ở miền Nam năm 1974. Về vọng cổ, nhiều bản vọng cổ của ông được thính giả ưa chuộng như: Tình anh bán chiếu, Sầu vương ý nhạc, Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Tần Quỳnh khóc bạn, Lá trầu xanh, Lòng dạ đàn bà, Lan và Điệp, Hàn Mặc Tử, Tâm sự Mai Đình, Tâm sự Mộng Cầm, Xuân đất khách, Tu là cội phúc, Gánh nước đêm trăng, Mồ em Phượng, Gánh bưởi Biên Hòa, Cô hàng chè tươi, Đêm khuya trông chồng, Mẹ dạy con, Phạm Lãi biệt Tây Thi, Phàn Lê Huê, Tự Đức khóc Bằng Phi, Bông ô môi, Ai ra xứ Huế, Đêm tàn Bến Ngự, Gió biển Hà Tiên, Đêm lạnh trong tù, Hán Đế biệt Chiêu Quân, Dương Quý Phi, Kiếp cầm ca, Đời vũ nữ, Lá bàng rơi, Biệt cố hương, Anh đi xa cách quê nghèo,… Trong hai bản vọng cổ Biệt cố hương (1960) và Anh đi xa cách quê nghèo (1974) chứa đựng nỗi đau ly hương và nỗi nhớ quê nhà Trà Vinh của ông rất nhiều. Nỗi niềm, tâm sự của ông gần như in đậm trên từng thanh âm, làn nhạc. Với Viễn Châu, khôn gian sáng tác bao trùm vẫn là thiên nhiên sông nước Nam bộ. Chiều sâu tác phẩm của ông cũng là chiều sâu tình cảm, tâm lý người Nam bộ. Tác phẩm của ông khi hòa trở lại với thiên nhiên sông nước Nam bộ, hòa tình cảm, tâm lý người Nam bộ tự nhiên có hồn và có hơi thở riêng của nó. Lời ca của Viễn Châu bình dị nhưng giàu cảm xúc, giàu chất thơ và giàu hình tượng nên dễ thuộc, dễ đi vào lòng người. Cái đọng lại trong sáng tác của Viễn Châu là tình cảm quê hương, con người, đất nước,… được thể hiện một cách mộc mạc, chân thật. Dựa vào bề dày sáng tác và biểu diễn, có thể coi Viễn Châu là một trong những ngôi sao sáng của bầu trời sân khấu Nam bộ nửa sau thế kỷ 20. Những đóng góp của ông trong lĩnh vực nghệ thuật nước nhà rất đáng kể và đã góp phần không ít trong việc phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Sưu tầm Tre xanh CA 17-03-2015 |
|
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 8 tháng #15545
|
Tình anh bán chiếu Hò ơ… chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu Chiếu này tôi chẳng bán đâu Tìm cô không gặp Hò ơ… tìm cô không gặp, tôi gối đầu mỗi đêm Trong giới mộ điệu cải lương, hỏi bài hát nào đi sâu vào lòng khán giả nhiều nhất, câu trả lời sẽ là bài vọng cổ Tình anh bán chiếu (của soạn giả Viễn Châu). Thật vậy, hiếm có bài hát nào đã gần 50 năm trôi qua nhưng vẫn được khán giả lưu lại trong lòng một tình cảm đặc biệt đến như vậy. Tại đồng bằng sông Cửu Long - cái nôi của nền cải lương Việt Nam - có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh “ghe chiếu Cà Mau…” xuất phát từ giọng hát của một đứa trẻ hay một cụ già luống tuổi. Nhiều chuyện tình đẹp và thơ mộng cũng được khởi nguồn qua nhạc phẩm trên. Chính từ những “hiệu ứng” đặc biệt trên, Tình anh bán chiếu đã trở nên bất hủ. Xin được bắt đầu bài viết này bằng những mẩu chuyện như sau: Một sinh viên người nước ngoài học tập tại TP. khi làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Việt Nam học đã chọn ngay bài Tình anh bán chiếu làm đề tài phân tích và đánh giá. Mở đầu phần giới thiệu của mình, người sinh viên trên chỉ nêu ngắn gọn: “Đây (Tình anh bán chiếu - PV) không những là một bài hát hay qua mọi thời kỳ mà còn là một tuyệt tác văn học...”. Câu chuyện thứ hai về một anh bạn Việt kiều theo gia đình định cư ở Mỹ từ khi lên 10 tuổi. Lần chuẩn bị về Việt Nam ăn tết này, anh báo trước với tôi rằng, bất cứ giá nào cũng phải dẫn anh về miền Tây để tham quan ngã bảy Phụng Hiệp - Cần Thơ. Địa danh được biết đến sau lần tình cờ nghe danh ca Út Trà Ôn hát bài Tình anh bán chiếu từ đĩa CD cũ kỹ mà mẹ anh vẫn còn gìn giữ. Trong lần về Cà Mau, tôi gặp một bạn trẻ vừa thể hiện bài Tình anh bán chiếu trên một sân khấu hát với nhau. Hỏi vì sao lại thuộc làu làu bài này mà không cần nhìn lời bài hát, anh bạn trẻ nhìn tôi như thể tôi từ trên trời rơi xuống rồi “phán” một câu chắc nịch: “Sao anh quê mùa quá vậy, ở cái miệt miền Tây cho dù có người ưa hay không ưa cải lương nhưng nếu bảo không biết đến bài vọng cổ này kể như không phải dân miền Tây chính gốc”. Ở TP. Hồ Chí Minh, chốc chốc đâu đó người đi đường lại được nghe “ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kênh ngã bảy...” được vọng ra từ các phòng karaoke, những quán ăn có sinh hoạt đàn ca tài tử... Nói như thế để biết rằng, Tình anh bán chiếu cho đến hiện giờ vẫn tràn đầy “sức sống”. Dù đã một phần hai thế kỷ trôi qua, nhưng nó vẫn tồn tại trong lòng khán giả và được mọi người nhớ về nó như một cái gì đó gần gũi nhất. Điều đáng trân trọng là giờ đây Tình anh bán chiếu không còn là một bài hát thông thường nữa, mà nó đã được thừa nhận như một áng văn bất hủ. Một ngày đầu Xuân, tôi tìm đến nhà soạn giả Viễn Châu. Trong căn nhà chật chội nhưng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, soạn giả Viễn Châu bồi hồi nhớ lại: “Thời điểm năm 1961, trong một lần về Bạc Liêu, đến ngã bảy Phụng Hiệp vào một buổi trưa, dừng chân bên một quán nhỏ ven đường, đang lúc nhâm nhi ly trà thì tôi thấy một thanh niên đang dựng bó chiếu nghỉ mát ở một gốc cây, mắt thì hướng về một đám cưới đang treo rèm, kết hoa ở phía xa xa. Một tia suy nghĩ bất chợt loé lên trong đầu và thế là chỉ chưa đầy một buổi trưa, câu chuyện về một chàng thanh niên bán chiếu từ miệt Cà Mau yêu thầm cô gái Phụng Hiệp - Cần Thơ đã được hình thành để rồi sau này trở thành nội dung chủ đạo của bài vọng cổ Tình anh bán chiếu”. Bài hát này soạn giả Viễn Châu ban đầu sáng tác dành riêng cho Út Trà Ôn (thời điểm này vừa được ông bầu hãng dĩa hát Hồng Hoa mời về) để rồi sau này Út Trà Ôn trở thành đệ nhất danh ca nhờ vào nó. Tuy nhiên, để “có chỗ đứng” trong lòng khán giả, Tình anh bán chiếu đã thành công nhờ vào những hình ảnh hết sức chân quê như con sông Phụng Hiệp, ghe chiếu Cà Mau, mối tình nhà quê của anh con trai tội nghiệp, thương mà không dám nói ra... tất cả được soạn giả Viễn Châu đưa vào bài hát một cách nhẹ nhàng và sâu lắng. Nội dung bài hát tuy bi thương nhưng nghe qua, rõ ràng không có sự ướt át, ủy mỵ thường thấy. Yếu tố thứ hai để có thể gọi đây là một áng văn bất hủ, xuất phát từ nghệ thuật dùng từ hay và tinh tế của người viết. Mặc dù ở Tình anh bán chiếu miêu tả về một chuyện tình cảm động của đôi trai gái miền quê nhưng xuyên suốt bài hát, thay vào cách xưng hô “em - anh”, người nghe chỉ được nghe “cô - tôi” để thể hiện sự rụt rè, đúng bản chất của người dân Nam Bộ (Cô ơi đôi chiếu bông này tự tay tôi dệt lấy); đôi khi thể hiện sự buồn bã, bức xúc cũng chỉ là “người ta” (người ta đã có đôi rồi…). Một Viễn Châu rất tinh tường khi dùng hình ảnh so sánh: anh bán chiếu với nỗi lòng bị phụ tình được ví như “hỡi ơi con sông Phụng Hiệp chảy ra bảy ngã, thì lệ của tôi sao nó cũng lai láng muôn dòng”. Để bài vọng cổ này được đi vào lòng khán giả, soạn giả Viễn Châu còn cho biết ông đã phối hợp nhiều yếu tố: văn chương, hình ảnh, cốt chuyện, âm nhạc và người thể hiện. Điều độc đáo, Tình anh bán chiếu không chỉ là chuyện tình tưởng tượng trong bài hát mà nó còn là những chuyện tình đẹp có thực ngoài đời. Tại Cần Thơ, có dạo giới thương hồ tưng bừng mở hội cưới nhau cho một cặp trai gái. Hai người quen nhau tình cờ trong một buổi cặp ghe chung trên bến Phụng Hiệp. Nàng cảm mến chàng hát bài Tình anh bán chiếu quá hay, sau đó đã đồng lòng “nâng khăn sửa áo” cùng nhau. Ngay cả soạn giả Viễn Châu, khi nghe chuyện về mối tình đẹp này ông cũng đã xúc động bởi một anh bán chiếu ngoài đời dẫu sao vẫn may mắn hơn và đó cũng là đoạn kết có hậu so với anh bán chiếu trong nhạc phẩm của ông. Út Trà Ôn.. Tình anh bán chiếu Hò Hò ơ… chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu Chiếu này tôi chẳng bán đâu Tìm cô không gặp Hò ơ… tìm cô không gặp, tôi gối đầu mỗi đêm Vọng cổ 1. Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào bên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra... chào. Cửa vườn cô đã khóa kín tự hôm nào. Tôi vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc sáo nhuộm bùn đã lấm tấm giọt mồ hôi. Nhà của cô sau trước - vắng tanh trong gió lạnh buổi chiều đông, bỗng có ai dạo lên tiếng nguyệt cầm như gieo vào lòng tôi một nỗi buồn thê thảm. 2. Cô đã đặt đôi chiếu bông bề dài hai thước, có lẽ để điểm tô ở chốn loan phòng. Nhưng rồi hôm nay, cô đã quên tôi để cất bước theo chồng. Cô ơi! Đôi chiếu này tự tay tôi dệt lấy, tôi đã lựa từng cọng lác sợi gai. Nhưng khi tôi đến nơi thì cô đã rời bỏ quê nhà sang xứ khác, tôi đứng trước cổng vườn xưa với nỗi buồn man mác, còn đôi chiếu này tôi biết tặng cho ai? 3. Nhớ năm ngoái khi ghe vừa tới vàm sông Ngã Bảy, cô đã tươi cười dẫn tôi đến tận nhà cô. Cô đưa tôi vào chốn phòng riêng để đo ni chiếc giường gõ đỏ và cô đặt làm đôi chiếu, cô hỏi qua giá cả - tôi trả lời lấy giá rẻ làm quen. Năm hôm sau khi tôi sắp sửa lui ghe cô còn đứng trên bến dặn dò kỹ lưỡng. Sau khi cô đà quay gót chiếc áo bông hường khuất dạng qua mấy lùm tre, cô có biết đâu tôi đã lấy nón lá che ngang để giấu đôi dòng nước mắt - vì tôi không muốn cho bàng quan thiên hạ, họ cười chê tôi là một kẻ si tình. Ngâm thơ Khi hỏi lại xóm giềng tôi mới biết Cô theo chồng đã được bốn trăng qua Mình dám đâu sai hẹn với người ta Mà họ đành đoạn bỏ nhà sang xứ khác. Vọng cổ 4. Tôi vác đôi chiếu bông mà cõi lòng tan nát, bước chân đi như thể xác không... hồn. Nước mắt tuôn rơi như lá rụng trên đường. Gió đông dập dồn gió thổi mạnh - lạnh đất trời, lạnh cả tâm can. Người ta đã có đôi rồi, chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung. Để mình vác cặp chiếu bông, chờ đợi chi nữa uổng công đợi chờ. 5. Khuya đêm nay nằm chờ nước lớn, nỗi buồn đau cứ canh cánh bên lòng. Tôi thấy đời của tôi sao lạnh lẽo khôn cùng. Còn chi buồn hơn nghề bán chiếu, để điểm tô loan loan phòng cho những cô gái còn xuân. Đến khi họ cất bước sang ngang lại không một lời hỏi han từ giã, đến đôi chiếu bông tôi đã ngồi dệt mấy ngày đêm ròng rã mà nay vẫn còn nằm trơ ở dưới khoang thuyền. 6. Ngọn gió đêm đông đừng thổi nữa, lòng tôi lạnh lắm gió đông ơi. Tôi nhổ sào cho ghe hiếu trôi xuôi, lòng nặng trĩu một nỗi sầu tê tái. Tôi ngồi yên sau lái, đôi mắt vẫn hướng về nẻo cũ vườn xưa. Hỡi ơi! Con sông Phụng Hiệp chảy ra bảy ngã, mà lệ của tôi - nó cũng lai láng tuôn dòng. Có ai biết được tấm lòng của tôi với cô gái mỹ miều trên kinh Ngã Bảy. Sông sâu bên lở bên bồi, tình anh bán chiếu trọn đời không phai. VIỄN CHÂU Tre Xanh CA 26-03-2015 |
|
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 8 tháng #15666
|
Nghệ thuật âm nhạc truyền thống Khơme Nam Bộ m nhạc của người Khơme Nam Bộ là một loại hình sớm định hình phát triển. Nó phản ánh mọi lĩnh vực sinh hoạt văn hóa, biểu hiện tình cảm, tính cách, tư duy cấu trúc thẩm mỹ của người Khơme Nam Bộ. Cuộc sống lao động hàng ngày đã phần nào ảnh hưởng đến sự sáng tạo trong việc chế tác các loại nhạc cụ. Nhiều loại nhạc cụ mang dáng của con thuyền, như đàn thuyền Runet êk, Kông thom, Kong tôết, và Runet dek. Ngoài ra, còn các nhạc cụ: Trơ sơ loa, Hơpân, Krap... đều là sản phẩm làm từ chất liệu thiên nhiên. Trước đây có một số nhà nghiên cứu xếp các nhạc cụ của người Khơme Nam Bộ thành hai dàn nhạc: dàn nhạc dân gian và dàn nhạc lễ. Dàn nhạc lễ (phlèng pưn pết) Từ xa xưa dàn nhạc này chỉ dùng trong các dịp lễ, đám của nhà chùa hoặc tư nhân, sau đó nhà chùa lại cất giữ, bảo quản. Dàn nhạc này gồm: Nhạc cụ gõ: được xem như là nhóm chính yếu. Nhiều trường hợp chỉ cần một nhạc cụ gõ cũng có thể thực hiện được những yêu cầu, chức năng của sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nhạc cụ gõ có các loại: Đàn Runet êk được cấu tạo bằng các thành tre dài khoảng 0,5m được đẽo gọt, xếp liền kề nhau. Có hai sợi dây xuyên qua các thanh tre, đặt lên một cái giá theo hình thuyền. Người biểu diễn hai tay cầm dùi gõ theo giai điệu của bài ca, âm thanh của đàn phát ra như giọng trầm của nữ. Đàn Runet thung cũng có cấu tạo, kiểu kích âm như Runet êk. Khác là chất liệu làm bằng gỗ, và âm thanh như giọng trầm của nam. Đàn Kông thom chất liệu bằng đồng. Đó là những chiếc cồng có kích thước to nhỏ khác nhau, xếp liền kề nhau đặt trên một cái giá đỡ hình bán nguyệt. Phương pháp kích âm là hai tay cầm dùi có mấu (hoặc đầu dùi buộc dây cao su) để gõ. Xkor thom là trống bịt da hai mặt (cao khoảng 0,6m). Dùng hai dùi gõ lên mặt trống. Xomphon loại trống da hai mặt, kích cỡ tương tự như trống Xkor thom. Trống đặt nằm ngang trên một chiếc giá đỡ phương pháp kích âm là cầm hai dùi gõ trên hai mặt trống. Runet dek cấu tạo kiểu dáng tương tự như đàn Runet êk nhưng chất liệu tạo đàn là sắt. Phương pháp tác động âm thanh là cầm hai dùi gõ (dùi theo hình thức búa gỗ). Trưng cấu tạo từ chất liệu sắt nó có hình dáng tương tự như chiếc cồng nhỏ, không có thành, giữa núm có một lỗ nhỏ xỏ dây cầm. Kích thước của Trưng có nhiều loại, có loại đường kính 0,1m; 0,15m; 0,2m hoặc lớn hơn. Nhưng thường 0,1m hoặc 0,15m... Phương pháp tác động âm thanh là hai tay cầm hai chiếc Trưng (chũm chọe) đập vào nhau. Nhìn chung các loại nhạc cụ gõ thường để trên các giá đỡ theo hình thuyền hoặc đường dây cung và có trang trí hoa văn rất đẹp. Đặc biệt là hai phía của các đàn theo hình thuyền thì thường có tạc, khắc các hình vũ nữ Khơme nhảy múa với nhiều tư thế, tạo hình khác nhau. Nhạc cụ hơi Srolai pưupét như loại sáo trúc của người Việt. Nhìn chung biên chế dàn nhạc của người Khơme Nam Bộ thường không ổn định, nó tùy thuộc vào điều kiện của từng phum sóc. Dàn nhạc đầy đủ gồm: m thanh chất liệu đồng (đàn kông thom), âm thanh chất liệu sắt (đàn Runet dek), âm thanh chất liệu da (trống Xkor thom, Xomphon), âm thanh từ chất liệu gỗ, tre (đàn Runet thung, Runet êk), âm thanh chất liệu trúc (sáo Srolai pưupet) được kết hợp với nhau. Dàn nhạc dân gian Nhạc cụ gỗ: Trống Xayam có hình dạng gần như chân voi gọi là trống chân voi. Đầu to có đường kính khoảng 0,3m hoặc 0,35m, đầu nhỏ không bịt da có đường kính khoảng 0,15m. Trống dài khoảng từ 0,6m đến 0,8m. Người ta thường dùng hai bàn tay vỗ lên mặt trống hoặc dùng khuỷu tay đánh trống. Hơpâm là kloại nhạc cụ gõ độc đáo của người Khơme Nam Bộ. Đó là hai chiếc gáo dừa khô. Người ta cầm hai chiếc gáo dừa đập vào nhau để tạo ra tiết tấu, âm thanh. Krap gần như phách của người Việt. Phương pháp tác động âm thanh là tay điều khiển hai thanh tre đập vào nhau. Nhạc cụ kéo gồm: Trô sơ lea có hình dáng, cấu tạo, chức năng cách kích âm giống như nhị, hồ của người Việt. Nhạc cụ gẩy: Khưm là nhạc cụ cấu tạo từ chất liệu gỗ và dây tơ, hình dáng, kiểu, kích thước, tính năng tương ứng như đàn nguyệt của người Việt. Nhạc cụ hơi: Khlui có hình dáng, kiểu, kích thước, tính năng tương ứng như sáo trúc của người Việt. Ngày xưa nhạc cụ của người Khơme Nam Bộ phân thành dàn nhạc dân gian và dàn nhạc lễ, nhưng ngày nay, trong thực tế ít có sự tách biệt đó mà thường là đan cài hỗn hợp. Các nhạc cụ tham gia vào mọi lĩnh vực sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Khơme. Tùy từng hoàn cảnh và điều kiện thực tế mà người dân sử dụng các nhạc cụ vốn có ở địa phương của từng phum sóc. Trong nghệ thuật ca hát của người Khơme Nam Bộ được các nhà nghiên cứu chia thành ba loại: Hát, hò, đọc tụng. Hát còn gọi là Chòm riêng, trong hát lại chia nhỏ thành những loại phản ánh theo các chủ đề khác nhau, nhất là hát theo ngành nghề. Đề tài về lao động thì rất phong phú sinh động. Các hoạt động về lao động phần lớn đã đi vào ca hát của người Khơme Nam Bộ. Hát lao động về các công việc có: Hát quăng chài (Chriêng bong som nanh); Hát chặt gỗ (Chriêng cap chlơ); Hát bổ củi (Chriêng puốc); Hát chăn tằm (Chriêng chinh chôm neang); Hát quay tơ (Chriêng rê quay sơt); Hát dệt vải (Chriêng don bare); Hát đập, dệt chiếu (Chriêng thbai côntel); Hát thợ mộc (Chriêng cheang chhơ); Hát thợ gốm (Chriêng smon chnăng); Hát đi săn (Chriêng pren bo banch); Hát đâm cá (Chriêng khăc kooper). Hát trong tục cưới có: Hát chú rể đến nhà gái (Chriêng dom rây phơlưk tok); Hát mở rào (Chriêng baikhon Chongday); Hát quét chiếu (Chriêng Bos Kântel); Hát cắt, rắc hoa cau... Hò: Người Khơme gọi là Bon tô bót. Hò có nhiều điệu như hò đua thuyền, hò kéo dây, hò hái sen. Hò gắn bó với những hoạt động của con người trong lao động. Đọc tụng còn gọi là hát lễ. Đây là nét độc đáo trong kho tàng hát dân gian của người Khơme Nam Bộ, bởi nó gắn bó với nghi lễ, sinh hoạt văn hóa chùa. Chùa của người Khơme là nơi sinh hoạt văn hóa lễ nghi của Phật giáo, trong nghi lễ Phật giáo hình thức đọc tụng (hát lễ) là một nhu cầu cần thiết không thể thiếu vắng. Nhìn chung nghệ thuật ca hát Khơme Nam Bộ là một kho tàng văn hóa vô giá tồn tại bền vững trong nhân dân và là một thành tố quan trọng trong nền văn hóa của người Khơme Nam Bộ. Lê Ngọc Canh Tre xanh CA 5-4-2015 |
|
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 7 tháng #15977
|
MẠC CỬU Trước khi đám di thần nhà Minh do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cầm đầu trốn sang nước ta (1679), Mạc Cửu người quê xã Lê Quách, huyện Khang Hải, phủ Lôi Châu (Quảng Đông) không phải là quan lại nhà Minh mà là thương nhân, cũng bỏ nước ra đi khi nhà Thanh chiếm Trung Quốc. Ông là chủ thuyền buôn, đi lại buôn bán trên các tuyến đường biển từ Trung Quốc đến Philippine Bâtvia (Indonesia)..có lẽ do cộng tác chặt chẽ với Trịnh Thành Công ở Đài Loan. Khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được, ông lập nghiệp luôn ở Chân Lạp. Là một nhà buôn tháo vát, lanh lợi có tài kinh bang tế thế, nói thạo tiếng Chân Lạp, khoảng năm 1860, ông được vương quốc này là Nặc Nộn mời làm quan và phong cho chức Óc Nha. Thấy chính sự nước này rối ren, mà đất Mang Khảm(tên vùng đất Hà Tiên lúc ấy) thuộc tỉnh Peam (người Tàu gọi Phương Thành) có nhiêu thương nhân nước ngoài đến làm ăn buôn bán, tụ tập mở sòng bạc lấy xâu (gọi là thuế hoa chi). Ông xin đến khai thác, ông bao thầu thuế ấy, rồi lại đào được một hầm bạc chôn, nên mấy chốc trở lên giàu có, ông chô xây một tòa thành trên bờ biển, mở phố xá, chiêu mộ lưu dân đến ở các nơi: Phú Quốc, Cần Bột (Kampot), Rạch Giá (Gia Khê), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hương Ức (Vũng Thơm, Kompong Som) lập được bảy xã thôn. Vào khoảng năm 1687, quân Xiêm đến cướp phá Hà Tiên, bắt ông cùng gia quyến đưa về Xiêm cho ở tại cảng Muang Galapuri (người Tàu gọi là Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau, nhân lúc nước Xiêm có loạn, ông trốn về Lũng Kỳ (Trũng Kỳ) rồi sau đó mới về được Mang Khảm. Ông bắt tay vào việc khôi phục Hà Tiên. Trước sự đe dọa của Xiêm và sự yếu kém của Chân Lạp, ông tìm chỗ nương tựa. Nghe lời khuyên của mưu sĩ, năm 1708, Mạc Cửu đem đất Hà Tiên dâng cho chúa Nguyễn. Việc này được Đại Nam liệt truyện, tập 1, quyển 6 của Quốc sử quán chép như sau: "Mạc Cửu người Lai Châu, tỉnh Quảng Đông. Khi nhà Minh mất, người Thanh bắt dân cắt tóc. Mạc Cửu cứ để dài, đi sang Nam. Đến nước Chân Lạp, Cửu làm Óc Nha. Thấy phủ Sài Mạc có người Kinh, người Trung Quốc, người Chân Lạp và Chà Và buôn bán đông đúc, Cửu bèn dời đến ở Phương Thành, mở sòng bạc gọi là "hoa chi" để lấy hồ. Lại đào được hố bạc do đó vọt lên gàu có. Cửu chiêu tập dân xiêu tán ở Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Hương Úc và Cà Mau (Cà Mao), lập làm bảy xã thôn. Lại vì đất ở chỗ đó có người tiên ẩn hiện trên sông, nên gọi là Hà Tiên. Chỗ ấy gần núi, ven biển, có thể tụ tập buôn bán để sanh lợi. Gặp lúc người Xiêm xâm lấn Chân Lạp, người Chân Lạp vốn ươn nhát, gặp giặc là chạy. Tướng Xiêm gặp Cửu nhân dụ về nước. Cửu bất đắc dĩ phải đi theo. Vua Xiêm thấy trạng mạo của Cửu cho là lạ, vui mừng giữ lại, cho ở núi Vạn Tuế. Sau đó, nhân nước Xiêm có nội biến, Cửu bèn lén về Lũng Cả. Những dân xiêu tán qui phục với Cửu ngày một đông. Cửu thấy Lũng Cả đất hẹp không thể ở đông người được lại dời về Phương Thành. Thương nhân và lũ khác bốn phương theo đến đông nhiều. " Có mưu sĩ là Tô Quân bảo Mạc Cửu: Người Chân Lạp tính giảo quyệt gian trá, ít trung hậu, không thể lương tựa lâu được. Nghe nói chúa Nam triều có tiếng nhân nghĩa, uy đức vốn đủ tin, chi bằng đến gõ cửa xưng thần để gây thế bám rẽ vững chắc. Muôn một có biến cố gì thì nhờ vua giúp đỡ. Cửu cho lời bàn là phải. Hiển Tông hoàng đế, năm thứ 17 Mậu Tý (1708), mùa thu, Cửu cùng thuộc hạ là bọn Trương Cầu, Lý Xá mang ngọc lụa đến cửa khuyết xưng thần, xin làm Hà Tiên trưởng, Chúa thấy Cửu có tướng mạo khôi ngô kỳ liệt tiến lui cung kính, cẩn thận, khen là trung thành, bèn ban sắc cho làm thuộc quốc đặt tên trấn ấy là Trấn Hà Tiên, trao Cửu chức Tổng binh quan, cho ấn vàng thao. Lại sai nội thần tiễn Cửu ra ngoài cửa thành. Ai cũng cho là vinh dự. Cửu về trấn dựng thành quách, lập doanh ngũ, đặt liêu tá, làm nhiều nhà khách để tiếp đón hiền tài. Dân đến ở ngày càng đông, Hà Tiên trở thành một nơi đô hội nhỏ. Trước đó mẹ Cửu là Thái thị nhớ con ngày một tha thiết, bèn từ Lôi Châu vượt biển đến, Cửu hiếu dưỡng đầy đủ, ở đã được lâu. Một hôm bà mẹ vào chùa Tam Bảo, cúng lễ phật rồi bỗng nghiễm nhiên trước phật mà hóa. Cửu nhân đúc tượng mẹ đặt vào chùa mà thờ. Tượng ấy đến nay vẫn còn. Mùa xuân năm Ất Mùi (1715), quốc vương Chân Lạp là Nặc Thâm đem quân Xiêm đến đánh Hà Tiên, Cửu chống không nổi, chạy ra Lũng Cả. Nặc Thâm cướp lấy của cải đồ vật rồi bỏ đi. Cửu liền về Hà Tiên, đắp thành, đặt nhiều điếm canh, làm kế phòng thủ nghiêm ngặt. Mùa hạ năm Ất Mão (1735), Cửu ốm chết, thọ hơn 80 tuổi, được tặng phong Khai trấn thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công..." Theo sử Cao Miên thì: "Năm 1710, sau khi quốc vương Thomo Reachea bỏ thủ đô, Ang Em(Nặc Ông Em) lên ngôi. Đây là lần thứ nhì ngài trị vì. Trong ba năm 1711, 1716 và 1722, Ngài đẩy lui ba lần tấn công của Thomo Reachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đình Huế che trở và giúp về mặt quân sự Ngài phó thác việc phòng thủ các tỉnh Peam (Hà Tiên), Kampot, Kompong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên là Mạc Cửu. Họ Mạc gốc Quảng Đông di cư sang Cao Miên sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. ông gầy dựng được một sự nghiệp tô tát nhờ mở sòng cờ bạc. Ông cho xây dựng một pháo đài ở Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định đổ bộ giúp Thomo Reachea, bị quân Mạc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên đến năm 1715, Mạc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận cho người Việt Nam kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm. Về sau, hoàng triều Cao Miên lấy lại quyền hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù lao Phú Quốc vẫn còn bị hậu duệ của Mạc Cửu "cai trị cho vua Việt Nam". Chính sử Chân Lạp cũng thừa nhận chủ quyền quản lý hợp pháp (theo quan niệm thời ấy) của chúa Nguyễn trên vùng đất này. Tuy nhiên suy cho cùng trong bối cảnh tranh dành quyền lực ở nội bộ hoàng gia Chân Lạp, các bên tranh chấp đều tìm kiếm liên minh để tăng thêm sức mạnh hầu thủ thắng, một phe dựa vào người Xiêm, còn phía kia dựa vào người Việt là điều đương nhiên. Như vậy, đến năm 1708 trên vùng đất Thủy Chân Lạp đã có ba trấn (Trấn Biên, Phiên Trấn và Hà Tiên trấn) thuộc phủ Gia Định trực thuộc chính quyền của chúa Nguyễn (Đàng Trong). Thi sĩ Đông Hồ có thơ nói về công trạng của hai cha con họ Mạc như sau: Nghĩ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích (Trích) : Chẳng đội trời Thanh Mãn Lần qua đất Việt bang Triều đình riêng một góc Trung hiếu vẹn đôi đường Trúc thành xây vũ lược Anh Các cao văn chương Tuy chưa là cô quả Mà cũng đã bá vương Bắc phương khi vỡ lở Nam hải lúc kinh hoàng Giang hồ giữa lang miếu Hàn mạc trong chiến trường Đất trời đương gió bụi Sự nghiệp đã tang thương... lăng Mạc Cửu Từ thị xã Hà Tiên đến Ao Sen chừng 800 mét là tới chân núi Bình San, còn gọi là núi Lăng vì trên núi có lăng mộ Mạc Cửu, các vị phu nhân, con cháu và tướng lĩnh của họ Mạc. Bình San là một ngọn núi tuy không cao nhưng giống như một bức bình phong che chở cho thị xã. Thuở xưa, Mạc Thiên Tích, con của Mạc Cửu, đã cho đào dưới chân núi một cái ao lớn hình bán nguyệt để trồng sen và lấy nước cho dân dùng, gọi là “Bán Nguyệt liên trì”, dân dã gọi là Ao Sen. Thời Pháp thuộc, đào thêm hai ao bên cạnh, về sau ao được nới liền để chứa nước phục vụ nhu cầu mùa nắng cho dân địa phương. Từ chân núi đi lên một đỗi, trước mắt chúng ta là cổng đền thờ họ Mạc, có hai câu liễn đối bằng chữ Hán do nhà Nguyễn ban tặng họ Mạc: Nhất môn trung nghĩa gia thinh trọng Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh (Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu Trương Minh Đạt dịch) Bên trong cổng là một khoảng sân rộng cùng nhiều cây xanh quanh năm xào xạc tạo cho không gian lăng mộ lúc nào cũng yên tĩnh và trầm mặc. Đối diện cổng là đền thờ Mạc Cửu, cột vuông, có hoành phi và liễn đối. Tuy công trình đã khởi xây từ thế kỷ 18 nhưng nhờ bảo quản tốt và trải qua nhiều lần trùng tu nên các hoa văn, họa tiết ở một số hiện vật vẫn còn sắc sảo. Trước đền có một cặp sư tử đá trông uy nghi dù đã bị thời gian và mưa gió bào mòn ít nhiều. Tại chánh điện đền có một biển thờ đề bốn chữ “Khai trấn trụ quốc” là lời tuyên dương của nhà Nguyễn trước công đức mở mang bờ cõi của dòng họ Mạc. Trên vách đền có ghi lại những bài thơ trong “Hà Tiên thập vịnh” của Mạc Thiên Tích. Cả lăng và đền thờ Mạc Cửu đều do Mạc Thiên Tích thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Theo nhận xét của một số nhà nghiên cứu thì lăng mộ Mạc Cửu được bố trí theo thuật phong thủy. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giác, bên phải là Đại Kim Dự. Phần lăng mộ Mạc Cửu nằm giữa những bức tường kiên cố, các bậc thềm đều cẩn đá xanh, có tảng dài đến ba mét, do các nhà buôn Trung Hoa thời bấy giờ chở từ Quảng Tây sang tặng. Ngôi mộ lớn nhứt của Mạc Cửu có hình bán nguyệt khoét sâu vào núi, núm mộ có hình dáng như một con trâu nằm (thế tọa ngưu). Hai bên mộ trước kia có hai tượng tướng sĩ oai phong cầm gươm đứng hầu, chạm trổ tinh vi. Khu mộ rất kiên cố nên dù đã trải qua ba thế kỷ nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu, chỉ đáng tiếc là hai bức tượng bằng đá xanh đã bị trộm được thay bằng tượng xi măng. Lần theo các lối mòn và những bậc thềm rêu phong là đến mộ phần của gia đình và tướng tá dòng họ Mạc. Phía dưới lăng Mạc Cửu là mộ bà Nguyễn Thị Hiếu Túc, vợ Mạc Thiên Tích (trái) và mộ Mạc Tử Hoàng (phải) rồi đến mộ Mạc Thiên Tích (cũng giống như mộ cha nhưng bày trí khiêm nhường hơn). Tương truyền, xưa kia trên đỉnh Bình San còn có nền Xã Tắc là nơi Mạc Thiên Tích thường đến tế chiến sĩ trận vong và nền Xuyên Sơn là nơi làm lễ tế trời đất hằng năm vào ngày mùng chín tháng Giêng âm lịch. Đi vòng theo chân núi chừng 3 cây số sẽ gặp một ngôi chùa do Mạc Thiên Tích xây cho nàng thứ thiếp là Phù Cừ tu hành. Đó là chùa Phù Dung. Trước năm 1975, cảnh quan Bình San còn hoang sơ, cây cối um tùm không được khang trang đẹp đẽ như bây giờ, nhưng lúc đó trước lăng Mạc Cửu có một cây mai bạch to lớn nổi tiếng khắp vùng, nhứt là mùa trổ bông, hương mai thoang thoảng giúp cho mọi người cảm thấy lâng lâng, sảng khoái. Đó là Nam mai , còn gọi là mai mù u. Trên thân cây có treo tấm bảng “Cây mai được đưa từ Quảng Tây qua trồng vào năm 1720”. Nhà thơ Đông Hồ đã từng đem hoa mai nầy ướp trà đãi khách quí ở Sài Gòn. Hiện nay cây mai nầy đã mất dấu tích nhưng trên núi Bình San vẫn còn rải rác nhiều cây mai con. Sưu tầm Tre Xanh CA 22-04-15 |
|
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 7 tháng #16161
|
Bác Ba Phi Nhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích. Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khỏi, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông. Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế - một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người con rể này và đó cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự cần cù sẵn có, ông đó ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng. Và cũng có thành ngữ "Tệ như vợ (thằng) Đậu" được dùng để chỉ những người vụng về. Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái. Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm tại ấp Đường Ranh, xó Khỏnh Hải nằm ở một gúc rừng U Minh Hạ. Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau. Những nét đặc sắc văn học Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh. Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc nghiệt. Với tinh thần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới quan của ông hiện ra thật sinh động và đáng yêu. Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba Phi, đồng thời nó cũng ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và con người. Cho đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông. Những câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy nhiên, nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và kết thúc. Một mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút gọn, dù có đảo lộn trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên suốt của những câu chuyện kể độc lập. Những câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất "truyền miệng", vì vậy thường bị “biên tập” hoặc “hiệu chỉnh” lại trong quá trình câu truyện “lưu lạc”. Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do người khác sáng tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi. “Lực sĩ Lung Tràm kể truyện” Từ Cà Mau, theo tuyến lộ Cà Mau - Đá Bạc, đi khoảng hơn 30 cây số, đến xã Khánh Hưng bao đò vô kênh Chín Bộ, quẹo phải đến kênh Lung Tràm vài trăm mét là đến nhà Nguyễn Long Phi (Bác Ba Phi). Tại đây, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Văn Đáp, là cháu rể kêu Bác Ba Phi bằng ông nội. Được ông giới thiệu người truyền khẩu truyện Bác Ba Phi. Ông nói, dân Lung Tràm xã Tân Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau không ai mà không biết các ông Sáu Nhuận, Bào Văn Thái, Trần Văn Danh... nhưng theo quy luật sanh tử nên hiện nay chỉ còn một mình ông Trần Văn Danh, gọi là ông Năm Danh, ông Năm truyền khẩu. Năm Danh năm nay đã 63 tuổi, nhưng trông vạm vỡ, cao to không khác gì “lực sĩ nơi Lung Tràm U Minh Hạ”. Hôm chúng tôi đến, ông đang đi xã mua dầu bơm nước chuẩn bị sạ lúa, nghe đứa cháu nội báo có nhà báo tới, ông bơi xuồng quay về. Căn nhà của ông chỉ cách phần mộ Bác Ba Phi không đầy 200m, nhưng ông một mực muốn tiếp chúng tại ngôi nhà thờ Bác Ba Phi hiện đang bỏ hoang, mưa nắng bào mòn dột nát, trong nhà chỉ còn có bàn thờ Bác Ba và bộ giường tre. Bà Năm, vợ ông kể lại: “Ngày Năm Danh về với làng này từ hồi còn thanh niên, trông ông khỏe mạnh, cao to, nhưng đi với Bác Ba Phi lại một trời một vực. Bác Ba cao to lắm. Từ nhỏ, ổng hay theo Bác Ba Phi đi làm ruộng, nên thân hình gân guốc và lớn mạnh như thế. Nhưng chính Bác Ba Phi, là những người truyền lại truyện cười dân gian Nam bộ, nó như những truyện cổ tích giữa đời thường đã ăn sâu vào tâm hồn của Năm Danh từ tấm bé. Hồi đó, Năm Danh rất khoái Bác Ba Phi kể chuyện, nhưng lại “ngán” Bác Ba mỗi lần “xỉn” là bắt ông đưa về. “Ngán” nhưng vẫn theo. Những lần nằm trên bắp đùi nghe Bác Ba Phi kể chuyện cho người dân trong xóm nghe bằng những câu chuyện cười ca ngơi sự trù phú của vùng đất U Minh, chuyện về trăn tát đìa, cọp xay lúa, cá lóc ăn dừa khô, chém trực thăng... với những tiếng cười ôm bụng của mọi người, đã làm ông nhớ mãi. Chuyện Ba Phi ngấm vào máu thịt, tâm hồn ông bởi những nghệ thuật ngôn từ, thi pháp kể chuyện dân gian... Ký ức ấy nuôi dưỡng ở Năm Danh và trở thành niềm đam mê kể chuyện cười tiếu lâm Bác Ba Phi từ những ngày vác phảng đi phác cỏ ruộng, kéo ống bơm nước vào ruộng, hay đặt lờ và cả những ngày đi gặt vần công ở tận cánh đồng Ngã tư Chủ Mía... Ngày 3 tháng 11 năm 1964, Bác Ba Phi qua đời, ông tổn thất lớn về tinh thần. Bởi ông coi ông dượng Ba Phi là thần tượng có một không hai của thế gian này. Ông suy tôn Bác Ba Phi là “Vua Trạng đất phương Nam”. Quyết không thể để truyện cười của Nam bộ mất đi, Năm Danh bắt đầu đem truyện cười Bác Ba Phi kể cho dân làng nghe sau những buổi làm ruộng, vườn, những đêm đi tuần đất về tụ tập nhau uống rượu. Năm Danh vừa lai rai, vừa kể chuyện quên cả thời gian, có khi tàn cuộc vui đến gà gáy sáng vẫn chưa hết chuyện. Tôi hỏi sao thuộc nhiều truyện của Bác Ba Phi quá vậy, Năm Danh cười nói: “Ông Ba Phi là ông dượng của tui, mà tui hồi nhỏ lúc nào cũng theo kè kè ông hết, hễ ông kể mẩu chuyện nào thì tui thuộc làu làu, làm sao mà quên được”. Có những câu chuyện mà tôi tâm đắc, chẳng hạn như kể chuyện Rùa làm ổ cho ông Bảy Bền, ông Năm Tôn nguyên là cán bộ công an của huyện nghe về chuyện hàng trăm con rùa vàng đang làm ổ đẻ trứng trong đám sậy. “Tụi mầy muốn ăn rùa thì tiếp tao dọn hết liếp sậy, tao cho hết mấy ổ trứng rùa về ngoải mà nhậu!” Tưởng Bác Ba nói thật, hai ông liền vác phảng ra phác hết đám sậy, nhưng không thấy một ổ rùa nào. Bác Ba liền nói “ý mà Bác quên, bây giờ mới nửa tháng 11 hà, rùa còn ẩn mình dưới ruộng, nó chưa chịu lên. Thôi vô đây lai rai với tao một vài ly rồi về. Cuối tháng vô đây tao cho đám sậy khác mà bắt”. Người giữ “hồn” truyện cười Bác Ba Phi Truyện cười của Bác Ba Phi là một pho truyện cười của Nam bộ, nếu như ở miền Bắc có Trạng thì ở Nam bộ có Bác Ba Phi. Hiện nay có nhiều cuộc hội thảo, sưu tầm, nghiên cứu về đề tài này, nhưng có lẽ hiệu quả nhất, gần gũi với người dân ít chữ như vùng Lung Tràm chính là hình thức truyền khẩu. Những người kể truyện Ba Phi như Nguyễn Văn Nhuận, Bào Văn Thái đã về với Bác Ba Phi, nhưng để lại cho đời một hình thức kể chuyện truyền khẩu cho rất nhiều người, như ông Năm Danh, anh Nam Tiên, chị Hai Minh... Có lần tôi cùng người dân trong xóm tập trung ngồi xung quanh bộ giường tre của từ đường Bác Ba để nghe Năm Danh kể chuyện. Những câu chuyện vui như Chém trực thăng, Heo đi cày, Cá trê Lung Tràm, Gác kèo ong mật... mọi người đều cười lên thích thú. Năm Danh vừa kể vừa ra bộ, có lúc lại nằm tréo cẳng ra, tay cầm điếu thuốc đưa lên miệng, nhả khói phì phà theo nội dung câu chuyện. Nhiều đứa trẻ nghe hấp dẫn đến nỗi hả hốc mồm, nước miếng nhễ nhại mà không hay biết. Ông kể từ 2 giờ chiều đến trời tối. Ếch, nhái, ễnh ương kêu inh ỏi mà mọi người vẫn háo hức ngồi nghe. Ông Năm Danh thật vui tánh, nhưng cũng rất dễ “tự ái nghề nghiệp”. Nếu thấy mọi người giục “ừ, ừ hay quá he ông Năm, kể thêm nữa đi thì kể tiếp, có những câu chuyện dài kể tới khô lưỡi mới hết. Cứ kể hết một mẩu truyện là ông năm hút điếu thuốc và uống một ly rượu lấy giọng. Nhưng nếu nói ông Năm nói chữ là tự ái đứng dậy, ra về. Chỉ hai, ba năm trở lại đây, khi các ông vua truyền khẩu truyện Bác Ba Phi qua đời, và hiện nay tuổi đã cao, sức yếu, nên ông Năm Danh ít đi xa như thời trai trẻ. Dân trong vùng muốn nghe chuyện thì tới nhà mời. Các đoàn tham quan từ khắp nơi đến viếng phần mộ Bác Ba Phi thì ông đến ngôi nhà thờ Bác Ba hoặc ngồi ngay tại phần mộ làm vài truyện. Ông nói “tui chỉ kể những truyện mà tôi biết từ khi theo ông dượng Ba Phi và được ông truyền lại, truyện thật 100%, chứ những truyện bịa tui không dám kể trước phần mộ ông”. Và những chuyện “cười” ra nước mắt! Những truyện Bác Ba Phi đem lại cho người đời những tiếng cười đến ôm bụng, thì hiện nay mọi người có đến viếng ông chắc hẳn sẽ cười, nhưng “cười đến ra nước mắt!”. Cười cho những đứa cháu nội của ông (con của bà Nguyễn Thị Anh, dâu của Bác Ba Phi) tranh giành phần đất do ông Ba Phi để lại. Ba Phi qua đời, vợ chồng Bà Anh là người thờ tự và khi chồng bà Anh qua đời, Bà chia phần cho các con mỗi người đôi ba công đất. Con thứ ba là Nguyễn Quốc Trị được bà chia cho một phần đất nằm ngang, nhưng ông đòi phải là xuôi theo mặt tiền kênh Lung Tràm. Bà không bằng lòng. Vậy là ông chặt ngón tay thề không lấy đất của mẹ. Người con thứ năm cũng có phần 6 công ruộng, một miếng vườn. Bà túng thiếu nên cố (cầm) cho gia đình đứa con thứ năm 7 chỉ vàng và bằng 30 giạ lúa/năm. Nhưng khi bà lấy lúa thì con của bà ra điều kiện: khi nào bà làm sổ đỏ, tui mới đong lúa. Đến khi bà nhờ đến chính quyền can thiệp thì mới được nhận lúa, nhưng đợi đến mùa sau mới đong. Những tưởng bà Anh ở với người con gái thứ hai cùng với bà để hương khói Bác Ba và tổ đường, nhưng khi con gái có chồng, bà không bằng lòng. Bà phản đối vì người chồng đã có vợ có con. Vậy là con gái thứ hai của bà dọn đồ trong nhà ra đi. Bà Anh cô đơn một mình, bà không dám ở, nên theo con gái thứ tư về tận Cà Mau để sống những ngày còn lại. Bà Anh ra đi, để lại một căn nhà ba căn, vách lá đổ rách. Nơi mang tiếng cười đến với mọi người giờ chỉ là nơi lạnh lẽo, hoang sơ. Duy nhất người con rể thứ tư của bà Anh sống có tình có nghĩa. Hằng ngày ông đến quét dọn, thắp hương cho ông nội và tổ đường, ông hiện nay sắp tuổi lục tuần, chỉ mong chính quyền địa phương quan tâm hòa giải sao cho hợp tình hợp lý, để sớm xóa đi nỗi quạnh hiu trong căn nhà – nơi còn đó một di ảnh Bác Ba Phi, ông vua truyện cười của vùng đất phương Nam. HUỲNH L M Tre Xanh CA 11-05-2015 |
|
└(≣) VỀ MIỀN TÂY cách đây 9 năm, 6 tháng #16371
|
Thoại Ngọc Hầu: Nguyễn Văn Thoại Thoại Ngọc Hầu là một danh tướng nổi danh của triều Nguyễn, tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 25-11 năm Tân Tỵ (1761) tại huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là Nguyễn Văn Lương và mẹ là Nguyễn Thị Tuyết. Sau này nhờ Thoại Ngọc Hầu có công lao nên hai người đều được tước phong. Do có công lớn nên được chúa Nguyễn phong tước hầu. Ngoài ra cũng vì có công “bảo hộ” Cao Miên nên còn được gọi là Bảo hộ Thoại.(Thoại là tên của ông, Ngọc chỉ là mỹ tự dùng làm tên đệm, Hầu là tước phong). Thời ông sống, lịch sử nước ta xảy ra chiến tranh Nam - Bắc giữa Trịnh với Nguyễn, tiếp theo là phong trào Tây Sơn. Thoại Ngọc Hầu phải cùng gia đình thân thuộc chạy vào Nam, cuối cùng định cư ở làng Thới Bình nằm trên cù lao Dài, sông Cổ Chiên thuộc địa phận Vũng Liêm, Vĩnh Long. Hiện nay ở đây còn một khu mộ gọi là lăng ông Bảo Hộ, gồm mộ mẹ đẻ và cha mẹ vợ của ông. Tính đến năm 1777, khi được 16 tuổi, Thoại Ngọc Hầu xin đầu quân chúa Nguyễn tại Ba Giồng. Năm 1778, ông có mặt trong trận chiến đấu chiếm lại thành Gia Định. Năm 1782, Tây Sơn đại phá quân Nguyễn ở cửa Cần Giờ diệt cả tên chỉ huy Pháp Manael, ông và chúa Nguyễn phải bỏ chạy. Năm 1784, tiếp theo năm 1785, ông theo Nguyễn Ánh sang Xiêm cầu viện. Từ năm 1787 đến năm 1789, ông đã có công trong việc thu lại thành Gia Định nên được phong chức Cai cơ. Năm 1791, được cử là Trấn thủ hải khẩu Tắc Khái (tức cửa Lấp thuộc Bà Rịa). Năm 1792, ông lại sang Xiêm, trên đường về ông đã đánh tan bọn cướp biển Bồ Đà (Giavanays), liên tục các năm 1796, 1797, 1799 ông đều được Nguyễn Ánh cử sang Xiêm công cán. Chức tước cao nhất sau khi đi sứ năm 1799 ở Xiêm về của ông là Thượng đạo Đại tướng quân. Ông cũng đi sứ sang Lào một lần. Năm 1800, Thoại Ngọc Hầu được phong Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân, phối hợp với Lào đánh quân Tây Sơn ở Nghệ An. Nhưng đến năm 1801, ông bị giáng cấp, xuống chức Cai đội quản suất Thanh Châu đạo vì tự ý bỏ về Nam mà không đợi lệnh trên. Năm 1802, Nguyễn vương thống nhất Nam - Bắc. Trong dịp tặng thưởng các bề tôi có công, Thoại Ngọc Hầu cũng chỉ được phong Khâm sai Thống binh cai cơ. Lúc ra Bắc tham gia thu phục Bắc Thành mới được cử Trấn thủ Bắc Thành rồi Trấn thủ Lạng Sơn. Năm 1808, trở về Nam nhận chức Trấn thủ Định Tường. Năm 1812, ông sang Cao Miên đón Nặc Ông Chân về Gia Định, năm 1813 hộ tống vị vua này về nước và ở lại “bảo hộ” Cao Miên. Ở đó được 3 năm, ông được triệu về nước để nhận chức trấn thủ Vĩnh Thanh. Mùa xuân năm 1818 đến vài năm sau ông vâng lệnh vua lo việc đào kênh, lập làng, xây dựng nhiều tuyến giao thông quan trọng… Năm 1821, Minh Mạng sắc chỉ cho ông là Thống chế Bảo hộ Cao Miên, kiêm Quản quân vụ Trấn Hà Tiên - Châu Đốc. Năm 1827, ông dâng sớ xin tuyển mộ tráng đinh, lập các đội quân An Hải và Châu Đốc để bảo vệ lãnh thổ phía Nam. Ngoài chăm lo việc đào kênh, lập làng, khẩn hoang Ông còn cho xây dựng nhiều tuyến đường bộ quan trọng nối liền nước ta và Cao Miên. - Ông mất ngày 6-6 năm Kỷ Sửu (1829). Sau khi trực tiếp xây dựng xong khu lăng miếu của chính mình và hai vị phu nhân, ông cho qui tụ hài cốt những người có công đào kinh Vĩnh Tế, khai hoang lập ấp về đây chôn chung trong lăng. Thoại Ngọc Hầu theo đạo Phật, sống lạc quan, thích hát hò nên lúc ở Châu Đốc lập ra gánh hát bội Quảng Nam, một truyền thống quê hương miền Trung của ông…. Về đời tư, ông đã cưới bà Châu Thị Tế, người cùng làng ở cù lao Dài, sinh được người con trai là Nguyễn Văn Lâm. Ông còn có một bà vợ thứ tên là Trương Thị Miệt cũng sanh một con trai là Nguyễn Văn Minh, ngoài ra ông còn có người con gái nuôi tục gọi là (thị) Nghĩa… Lăng Thoại Ngọc Hầu - Vị trí: Lăng Thoại Ngọc Hầu thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Ðốc, tỉnh An Giang. - Đặc điểm: Lăng Thoại Ngọc Hầu là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam. Khu lăng có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân được xây vào thập niên 30 của thế kỷ 20. Nói đến An Giang, hẳn du khách đã hơn một lần được chiêm ngưỡng những công trình tiêu biểu, gắn với một thời đi khẩn hoang, lập làng bảo vệ biên cương Tổ quốc của Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại. Ông là người có công đào kênh, đắp đường, góp phần xây dựng nên xứ sở An Giang tươi đẹp ngày nay, với các công trình như: lộ núi Sam – Châu Đốc dài 5 km được đắp từ năm 1826 – 1827, kênh Thoại Hà dài 30 km tại núi Sập được đào năm 1818. Người dân nơi đây gọi núi Sập là “Thoại Sơn” để ghi nhớ công lao Thoại Ngọc Hầu. Lăng được bao bọc bằng một bức tường thành vách đúc dày dặn. Khu tịch rộng thênh thang với các bậc thang được xây bằng đá ong. Cổng vào lăng có vòm cong hình bán nguyệt, hai bên trụ có chạm khắc câu đối, phía trong lăng là một khu đất bằng phẳng. Mộ Thoại Ngọc Hầu nằm chính giữa, bên phải là mộ của bà chính thất Châu Thị Tế, bên trái hơi lùi lại một chút là mộ bà thứ thất Trương Thị Kiệt. Bên phải khu mộ Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân là những ngôi mộ được xây thành một nhóm riêng biệt, phần nhiều là hình bầu dục, còn lại là hình voi phục, hình trái đàọ Theo lời một vài bô lão trong làng, thì đây là nơi cải táng những dân công đã chết trong khi theo Thoại Ngọc Hậu khai hoang lập ấp và đào kinh Vĩnh Tế. Thoại Ngọc Hầu có công khai phá vùng biên giới hoang vu và xây dựng nhiều công trình có giá trị cao: hai kinh Vĩnh Tế và Thoại Hà. Lập các làng ở Thoại Sơn và hai bên bờ kinh Vĩnh Tế. Mở đường Châu Đốc đi núi Sam. Từ năm 1819 – 1824, kênh Vĩnh Tế được xây dựng, với chiều dài hơn 90 km và số nhân công lên đến 80.000 người, đây là một công trình kiến trúc tương đối qui mô, nối từ Châu Đốc đến Hà Tiên rồi chảy ra vịnh Thái Lan. Để ghi nhận công đức người vợ đắc lực của Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, vua Minh Mạng đã đặt tên con kênh là “Vĩnh Tế Hà”, và núi Sam được đổi thành “Vĩnh Tế Sơn”. Bên triền núi Sam, Thoại Ngọc Hầu cùng hai người vợ yên nghỉ trong ngôi lăng đường bệ và bên cạnh là ngôi đền thờ Ông. Du khách có dịp đến Thất Sơn - An Giang xin mời đến viếng thăm lăng mộ Thoại Ngọc Hầu, ngắm dòng kênh Vĩnh Tế xanh biếc hiền hòa. Sưu tầm Tre Xanh CA 02-06-2015 |
|
Copyright© 2012
Thời gian tải trang: 0.12 giây