Chào Khách quý
|
Văn xuôi, chuyển kể, hồi ký...
|
NỘI DUNG CỦA CHỦ ĐỀ:
TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 11 tháng #10119
|
Hôm nay là mùng 6 tháng chạp (tháng 12 âm lịch). Năm con ngựa sắp đến gần, thầy cô sưu tầm vài câu chuyện nói về ngựa để chúng ta có dịp ôn lại, cũng như mở rộng kiến thức về Ngựa.
CON NGỰA SẮT CỦA PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG Ở nước ta, vào đời vua Hùng vương thứ 6, tại làng Phù dổng, huyện Võ giàng, tỉnh Bắc ninh, có đôi vợ chồng nọ sinh hạ được một bé trai kháu khỉnh, khiến cha mẹ đúa bé rất vui mừng và hết lòng nuôi nấng để mong ngày sau nối dõi tông đường. Nhưng rồi sự vui mừng đó giảm dần đi để nhường chỗ cho sự lo âu, phiền muộn, vì không hiểu sao đứa bé suốt ngày chỉ nằm yên một chỗ, không cử động la khóc gì cả, mãi đến năm ba tuổi mà vẫn chưa biết nói và đi được bước nào. Cha mẹ bé đã đi cầu đảo nhiều nơi nhưng vẫn không hiệu quả. Giữa lúc đó thì có tin giặc Ân đã tràn vào xâm lấn bờ cõi, thanh thế rất mạnh, đi tới đâu tàn sát dân lành tới đó, quan quân triều đình không chống cự nổi. Tin cấp báo bay về đến kinh sư, nhà vua rất lấy làm lo lắng, vội sai sứ giả đi rao truyền khắp nước để tìm người tài giỏi ra dẹp giặc. Khi sứ giả đi đến làng Phù Đổng thì bỗng nhiên cậu bé nói trên ngồi nhổm dậy và cất tiếng nhờ cha mẹ đi mời sứ giả vào nói chuyện. Cha mẹ cậu bé lấy làm kinh ngạc, tưởng chừng như đang sống trong giấc chiêm bao. Nhưng với thực trạng rõ ràng trước mắt, cha mẹ cậu bé đi từ kinh ngạc đến vui mừng và cuối cùng, theo lời cậu bé, đi tìm sứ giả đến cho cậu ta tiếp kiến. Cậu bé nói với sứ giả về tâu vua cho đúc một con ngựa và một cây roi bằng sắt thật to lớn để cậu dùng đi đánh giặc. Sứ giả về tâu lại, nhà vua lấy làm lạ bèn cho đòi cậu bé vào chầu, sau đó cũng cho đúc ngựa và roi như lời xin của cậu bé. Khi đúc xong, toán thợ rèn đem ngựa đến, cậu bé vỗ vào đầu ngựa một cái, lập tức con ngựa đó nát ra từng mãnh vụn. Lần thứ nhì cũng thế. Đến lần thứ ba, triều đình trưng tập cả ngàn thợ rèn, thu gom hết sắt trong dân chúng, đúc một con ngựa và một cây roi cực lớn rồi hì hục khiêng đến sân chầu. Cậu bé trông thấy rất bằng lòng, lập tức vươn vai một cái, tự nhiên con người trở nên cao lớn hơn một trượng, đoạn từ biệt nhà vua, cha mẹ và mọi người rồi nhảy phóc lên mình ngựa, ra roi phi nước đại, không mấy chốc đã tới trận địa của giặc Ân. Cậu bé - mà lúc nầy đã trở thành một con người to lớn - thúc ngựa vào trận giặc, tới đâu ngựa phun lửa ra tới đó, còn cậu thì vung roi đánh tới tấp, bọn giặc ngả lăn ra chết, nằm ngổn ngang như rạ. Bỗng chiếc roi bị gảy, cậu liền vói tay nhổ cả một bụi tre làm vũ khí, tiếp tục tấn công quân giặc. Không bao lâu, toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt sạch, nhưng rồi ngay sau đó, người con trai Phù đỗng cũng phóng ngựa đi luôn, đến núi Sóc Sơn thì cả người lẫn ngựa đều bay thẳng lên trời, từ đó về sau không còn ai trông thấy nữa. Vua nhớ ơn, sai lập đền thờ ở làng Phù Đỗng và phong tước là Phù Đổng Thiên Vương. Hằng năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng tư, dân chúng trong vùng mở hội linh đình để tưởng nhớ vị anh hùng đã có công cứu nước. Ngoài ra, dân gian còn có thành ngữ "Vươn vai Phù Đổng" để chỉ một sự lớn mạnh phi thường, như cậu bé làng Phù Đổng chỉ trong nháy mắt đã trở thành một con người vĩ đại Mùng 6 tháng chạp Quí Tỵ TC (st) |
|
└(≣) TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 11 tháng #10127
|
NGƯẠ ĐÁ HAI PHEN PHÒ XÃ TẮC
Theo lối kiến trúc cuả nước ta ngày xưa thì mỗi khi xây dựng đền đài, lăng miếu để thờ các vị vua chúa hay các bậc vĩ nhân trong lịch sử, người ta thường tạc hình các ngưạ voi băng đá đặt trước sân chầu, có lẽ để cho các vị nói trên sai khiến như lúc còn sinh tiền vậy. Chiêu lăng, nơi thờ các vị vua nhà Trần ở Long hưng, chính là một trong những nơi như thế. Sử chép rằng vào thế kỷ thứ 13, dưới triều đại nhà Trần, nước ta đã ba lần bị quân Mông cổ sang xâm chiếm, nhưng cả ba lần chúng đều thảm bại, phải từ bỏ mộng thôn tính nước ta như chúng đã thôn tính nhà Tống bên Tàu và nhiều nước khác. Để làm nổi bật chiến công hiển hách cuả quân dân ta dưới đời nhà Trần, thiết tưởng cũng nên biết qua về sự hùng mạnh của quân Mông cổ. Nguyên người Mông Cổ thuộc giống rợ Đạt đát, ở về phía tây bắc tỉnh Hắc long giang bên Tàu. Đó là một giống người hung bạo, hiếu chiến, có tài cưỡi ngựa bắn cung và xông pha trận mạc. Truyền đến Thiết mộc Chân thì đã rất cường thịnh, ông ta bèn đại hội các bộ lạc và lên ngôi Đại hãn (như Hoàng đế), lấy hiệu là Thành cát tư hãn (Gengis Khan - 1206). Đến đời các Đại hãn A Hoạt Đài, Mông Kha, Hốt tất liệt... thì vó ngựa của quân Mông cổ đã tung hoành khắp nơi trên hoàn vũ. Họ đã diệt nước Kim, bình nước Tống, đoạt Tây Bá Lợi Á, vào Nga la Tư, tiến thẳng đến bờ sông Danube; một đạo quân khác từ Ba lan tiến đánh thành Venise cuả Ý, khiến các nước Âu châu rúng động, gọi quân Mông cổ là hoàng họa (cái họa da vàng), hoặc cây gậy cuả Thượng đế. Cũng may là vì trong nước có biến, quân Mông cổ phải rút về nên các nước Âu châu mới thoát nạn. Nhưng cũng chính đạo quân hùng mạnh đó, ba lần sang chinh phục nước ta thì đều bị đánh tan không còn manh giáp. Lần thứ nhất (1257), tướng Mông cổ là Ngột Lương Hợp Thai, từ Vân Nam theo đường sông Thao giang xuống đến tận Thăng long, vua tôi nhà Trần phải tạm thời triệt thoái để rồi sau đó phản công ở Đông bộ đầu, khiến quân Mông cổ phải chạy thất điên bát đảo. Lần thứ hai (1284), tướng Mông cổ là Thái tử Thoát Hoan thống lãnh 50 vạn quân, dùng kế “dĩ đồ diệt Quắc” (mượn đường nước Ngu mà đi đánh nước Quắc), giả tiếng mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành, nhưng kỳ thực là để thôn tính nước ta. Bị triều đình ta cự tuyệt, quân Mông cổ bèn tràn sang, thế như vũ bão. Quân ta phải tạm thời rút lui rồi sau đó đánh tan quân địch ở các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết v.v.. khiến Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân sĩ kéo chạy về Tàu. Lần thứ ba (1287). cũng lại chính Thoát Hoan quyết tâm sang đánh báo thù, mượn tiếng đưa Trần ích Tắc về làm An nam quốc vương, nhưng cũng như hai lần trước, lần nầy quân Mông cổ cũng bị quân dân ta đánh bại ở sông Bạch đằng, các tướng Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc v.v..bị bắt, Thoát Hoan phải nhò bọn Trịnh Bằng Phi, Áo lỗ Xích ...hộ vệ mới chạy thoát được về bên kia biên giới. Khi đã quét sạch quân Nguyên ra ngoài bờ cõi, vua tôi nhà Trần bèn đem bọn tướng giặc bị bắt vào làm lễ hiến phù ở Chiêu lăng. Nhân thấy các ngựa đá ở trước lăng, con nào chân cẳng cũng lấm đầy bùn đất, vua Trần Nhân tôn cho rằng nhờ khí thiêng sông núi nên đến ngựa đá cũng ra trận và góp phần đánh thắng quân thù, do đó Ngài xúc cảm làm hai câu thơ chữ Hán: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu (Ngựa đá hai phen phò xã tắc Âu vàng muôn thuở giữ sơn hà) (Ghi chú : Quân Mông cổ ba lần sang xâm chiếm nước ta, nhưng lần đầu có tính cách thăm dò. Hai lần sau mới thực sự ác liệt nên vua Trần Nhân tôn mới nói là “Ngựa đá hai phen phò xã tắc...”). Mồng 7 tháng chạp TC (st) 7.1.14 |
|
└(≣) TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 11 tháng #10139
|
CHUYỆN ÔNG GIÀ Ở CỬA ẢI MẤT NGỰA (tái ông thất mã).
Sách Hoài Nam Tử có chép một câu chuyện như sau: "Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần Trường thành, có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão là người thông hiểu việc đời nên rất bình tỉnh nói: - Biết đâu con ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão, và nhắc lại lời ông lão đã nói trước đây. Ông lão không có vẻ gì vui mừng, nói: - Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy sẽ dẫn đến tai họa cho tôi. Con trai của ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết nên nhảy loạn lên. Có lần con ông lão không cẩn thận để ngựa Hồ hất xuống, té gãy xương đùi, khiến con ông lão bị què chân, tật nguyền Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế. Ông lão thản nhiên nói: - Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa nầy mà được phúc. Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống ngăn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình." Sau khi kể câu chuyện trên, sách Hoài Nam Tử đưa ra luận điểm: Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó. Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: Tái ông thất mã, an tri họa phúc. Nghĩa là: ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc. Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống. Mồng 8 tháng chạp TC(st) 8.1.14 |
|
└(≣) TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 11 tháng #10150
|
Ngựa ký kéo xe muối (ký phục diêm xa) Trong các loài ngựa, có ngựa kỳ và ngựa ký được gọi là thiên lý mã, vì mỗi ngày chúng có thể chạy được hàng nghìn dặm. Có một người họ Tôn tên Dương, tự là Bá Nhạc, sống dưới đời Tần Mục Công, rất có tài xem tướng ngựa. Một hôm ông đi qua vùng Ngu Bản, gặp một con ngựa ký già bị người ta bắt kéo một xe muối lên núi Thái Hàng. Móng nó duỗi ra, đầu gối nó khuỵu lại, mồ hôi rỏ xuống đầm đìa. Giữa dốc nó thụt lùi, ráng đội càng xe lên nhưng không lên được nữa. Bá Nhạc trông thấy, xuống xe, ôm đầu nó mà khóc, cởi áo mà phủ cho nó. Nó cúi đầu xuống mà phì hơi, ngưỡng cổ lên mà hí, tiếng hí động tới trời như tiếng kim, tiếng thạch. Vì sao nó phản ứng như vậy? Vì nó biết Bá Nhạc là ngươi thông cảm cho tình cảnh của nó. Đời nhà Đường, văn hào Hàn Dũ có bài Thiên lý Mã, đại ý như sau: Đời có Bá Nhạc rồi sau mới có thiên lý mã. Thiên lý mã thường có mà Bá Nhạc chẳng thường có. (Vì không có Bá Nhạc) cho nên dù là danh mã thì cũng chỉ bị nhục nơi tay kẻ tôi tớ, chết nơi xó chuồng máng cỏ mà thôi, chẳng bao giờ được nổi danh thiên lý. Ngựa mà đi được hàng nghìn dặm, mỗi lần ăn thường hết một thạch thóc. Người nuôi nó không biết cái hay thiên lý của nó nên không cho nó ăn đầy đủ, do đó tài nghề giỏi dắn không xuất hiện ra được, dẫu muốn cùng ngựa thường so sánh còn chẳng được thay, làm sao cầu cái hay nghìn dặm cuả nó? Quất nó chẳng đúng phép, nuôi nó chẳng hợp với tài cuả nó, bắt nó hí mà không hiểu được ý cuả nó rồi than phiền rằng: “Thiên hạ không có ngựa” (Thiên hạ vô mã dã). Than ôi! Kỳ thật không có ngựa ư? Kỳ thật là không biết ngựa vậy!(Ô hô! Kỳ chân vô mã da? Kỳ chân bất tri mã dã!). Đời sau có thành ngử “Ký phục diêm xa” (Ngựa Ký kéo xe muối), ám chỉ những ngươi có tài năng mà không được ai biết tới hoặc không được dùng đúng chỗ. Mồng 9 tháng chạp TC (st) 9.1.14 |
|
└(≣) TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 11 tháng #10169
|
CHỈ HƯƠU NÓI NGỰA
Theo sách Sử ký cuả Tư mã Thiên (bản dịch cuả Nguyễn hiến Lê) thì sau khi Tần Thủy hoàng chết rồi, Thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao giả chiếu buộc Thái tử Phù Tô phải tự sát rồi lập con thứ là Hồ Hợi lên thay, lấy hiệu là Tần Nhị thế. Sau đó Triệu Cao tìm cách hãm hại Lý Tư để được lên làm Thưà tướng. Lúc nầy thế lực nhà Tần đã vô cùng suy yếu, bên ngoài thì lực lượng chư hầu đã làm chủ tình hình mà trong triều thì Triệu Cao chuyên hoạnh, không coi Tần Nhị thế ra gì. Y đã nuôi dã tâm làm phản, nhưng còn e ngại sự chống đối cuả quần thần nên tìm cách thăm dò thái độ cuả họ. Một hôm y hội họp các quan rồi dâng cho Nhị thế một con hươu, nhưng bảo đó là con ngựa. Nhị Thế cười nói: “Thừa tướng lầm đấy chứ! Sao lại gọi con hươu là con ngựa?” Rồi Nhị Thế hỏi các quan, nhiều người im lặng, nhưng cũng có người nói là ngựa để vừa lòng Triệu Cao, trong khi một số ít nói đó là con hươu. Triệu Cao bèn chú ý những người nói hươu để rồi tìm cách hãm hại. Từ đó ai nấy đều sợ Cao, đến nỗi y giết Tần Nhị thế và lập Tử Anh lên thay, tức là Tần Tam thế. Nhưng rồi y lại bị Tử Anh đâm chết ỏ trai cung trước khi ông nầy ra đầu hàng Lưu Bang và Hạng Võ. Cơ nghiệp nhà Tần đến đây là hoàn toàn chấm dứt. Khi vua Thủy Hoàng nhà Tần thống nhất Trung quốc, lên ngôi hoàng đế, đã tin tưởng rằng ông sẽ truyền ngôi cho đến vạn đời nên lấy hiệu là Thủy hoàng (vị hoàng đế đầu tiên), đời con sẽ là Nhị thế, đời cháu là Tam thế và mãi mãi cho đến Vạn Vạn thế. Nhưng không ngờ chỉ trong vòng 15 năm thì sự nghiệp tan thành mây khói. Sở dĩ như vậy là vì ông ta đã thi hành một chính sách cai trị độc tài tàn bạo, đốt hết sách vở cuả thánh hiền, chôn sống hàng ngàn nho sĩ và áp dụng nhiều hình thức đàn áp nhân dân trong nước. Đời nhà Hán, Giã Nghị có làm bài Quá Tần luận, phê bình chính sách nhà Tần một cách nghiêm khắc và xác đáng. Đến đời nhà Đường, thi hào Đỗ Mục có bài phú về cung A phòng rất nổi tiếng (cung nầy do Tần Thủy hoàng xây dựng nên), trong đó có đoạn kết đáng làm bài học cho đời sau: “Ô hô! Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã. Tộc Tần giả, Tần dã, phi thiên hạ dã. Ta hồ! sử lục quốc các ái kỳ nhân tắc túc dĩ cự Tần; Tần phục ái lục quốc chi nhân tắc khả chí vạn thế nhi vi quân, thùy đắc nhi tộc Tần dã. Tần nhân bất hạ tự ai nhi hậu nhân ai chi; hậu nhân ai chi nhi bất giám chi, diệc sử hậu nhân nhi phục ai hậu nhân dã” Dịch là: Than ôi! kẻ diệt sáu nước chính là sáu nước chứ không phải nhà Tần. Kẻ diệt cả họ nhà Tần chính là nhà Tần chứ không phải là thiên hạ. Ôi! nếu người sáu nước biết đoàn kết thương yêu nhau thì đủ sức chống cự nhà Tần (ý nói vì người sáu nước chia rẻ nhau nên bị nhà Tần tiêu diệt). Nếu nhà Tần biết yêu thương dân sáu nước thì có thể truyền ngôi đến vạn đời chứ ai diệt nhà Tần cho nổi? Người Tần không rảnh để tự thương cho mình mà để đời sau thương giùm cho họ. Người sau thương giùm cho họ mà không biết lấy đó làm gương thì lại khiến đời sau nữa thương cho đời sau đó vậy. Than ôi! Nếu các nhà làm chính trị đời nay mà rút được bài học đó thì có thể khỏi bị thân bại danh liệt, nhân dân nguyền rũa và để tiếng xấu cho đời sau. TC(st) 10.1.14 |
|
└(≣) TẢN MẠN NĂM CON NGỰA cách đây 10 năm, 10 tháng #10195
|
BÒ KHÔNG THỂ ĐẺ RA NGỰA
Vua Hoàn Công nước Tề, một hôm đi săn, đuổi một con hươu chạy vào trong cái hang có một ông già đang ở. Vua hỏi hang nầy tên là hang gì, ông lão nói: - Tên là hang Ngu Công. - Vì sao mà đặt tên như thế? - Tại kẻ hạ thần nầy mới có cái tên ấy. - Coi hình dáng lão cũng không phải là người ngu, tại sao đặt tên cái hang như thế? - Để hạ thần xin nói: Nguyên hạ thần có nuôi một con bò cái, đẻ được một bò con. Khi bò con đã lớn, hạ thần đem đi bán, lấy tiền mua một con ngựa đem về nuôi chung với bò cái trong cùng một chuồng. Một hôm có một chàng thanh niên đến, lấy lý rằng bò không thể đẻ ra được ngựa nên bắt ngang con ngựa đem đi. Thần cô thế không cãi lại được, đành phải chịu mất con ngựa, do đó mọi người đều cho thần là ngu và đặt tên cái hang nầy là hang Ngu công.” Hôm sau, trong buổi chầu, Hoàn Công đem câu chuyện nói trên kể lại với quan Tướng quốc là Quản Trọng, tức Quản di Ngô. Ông nầy nói: “Đó chính là cái ngu cuả Di Ngô nầy chứ không phải cuả ông Ngu Công nào cả. -Thần làm Tướng quốc mà không giúp được gì cho Chúa công trong việc sửa sang phép nước, đến nỗi có người dám ngỗ ngược lấy không ngựa của người ta như vậy thì rõ ràng hình pháp ngày nay không ra gì. Vậy xin nhà vua kíp chỉnh đốn kỷ cương để cho người dân thấp cổ bé miệng như ông Ngu công nầy khỏi bị người ta ức hiếp... Nhà học giả Nguyễn văn Ngọc, trong sách Cổ học tinh hoa, khi đề cập đến chuyện nầy đã bình luận như sau: “Ông lão cam tâm mất ngựa, lại chịu mang cái tiếng là “ngu” vì trong ý lão nghĩ rằng gặp thời buổi người trên tham nhũng, kẻ dưới hung bạo, thà để êm chuyện đi còn hơn dở khôn đi kiện, chẳng những mất ngựa mà có khi mất cả bò và bao nhiêu tiền bạc, thì giờ vào đấy nữa. Quản Trọng nghe chuyện mà biết nhận ngay cái lỗi cuả mình, thế là có tinh thần trách nhiệm, không đổ lỗi cho người khác...”. Nhìn lại thế giới ngày nay, có nhiều nơi còn tồn tại rất nhiều tệ nạn bất công, tham nhũng, cướp giật, băng đảng, mạnh đuợc yếu thua, khôn sống mống chết, khủng khiếp gấp trăm ngàn lần so với chuyện cướp ngựa nói trên, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận trách nhiệm về mình mà chỉ đổ cho hoàn cảnh, môi trường, hoặc cấp trên đổ cho cấp dưới, ngành nọ đổ cho ngành kia, nhiều lúc những người có lỗi lại được thăng quan tiến chức, so với Quản Trọng ngày xưa thật khác nhau một trời một vực. TC (st) 12.1.14 |
|
|
Copyright© 2012
Thời gian tải trang: 0.19 giây